Insane
Đọc truyện

Thiên thần nhỏ của tôi - Phần 1


Thế là một lần nữa gia đình tôi lại dọn nhà.
Đây là lần dọn nhà thứ ba trong vòng bốn năm qua.
Thông thường, sự thay đổi chỗ ở liên tục bao giờ cũng kéo theo những phiền phức. Nó làm cho cuộc sống luôn bị xáo trộn và việc ổn định nề nếp sinh hoạt gặp rất nhiều khó khăn.

Vì vậy, người ta thường bắt gặp trên gương mặt đẫm mồ hôi và bụi bặm của những người dọn nhà vô số những nét nhăn nhó, mệt mỏi khiến người nào người nấy trông cứ khó đăm đăm.
Nhưng đó là xét theo lẽ thường. Ngoài lẽ thường ra, cuộc đời còn nhiều lẽ khác nữa. Gia đình tôi thuộc về trường hợp sau. Những ngày dọn nhà đối với chúng tôi là những ngày lễ hội thực sự. Mặt người nào người nấy tươi hơn hớn.
Ba mẹ tôi lúc nào cung xoắn xuýt bên nhau y như hồi mới cưới và luôn miệng bàn bạc và nhắc nhở nhau về những việc cần để mắt trong khi vận chuyển đồ đạc đến chỗ ở mới. Trong những ngày đó, hai người nói chuyện với nhau bằng một giọng dịu dàng hiếm có, với ánh mắt lúc nào cũng long lanh, và thú thật tôi rất sung sướng khi được nhìn thấy ba mẹ tôi với hình ảnh như vậy.
Còn tôi và anh Khánh tôi thì khỏi nói. Chúng tôi lăng xăng sắp xếp đồ đạc, miệng không ngớt ca hát, hò hét và gây gổ trong khi giành giựt nhau từng món đồ chơi nhỏ.

Thật ra, sở thích và trò chơi của hai anh em tôi rất khác nhaụ Anh Khánh tôi mê những trò chơi máy móc tối tân. Anh có riêng một ngăn tủ kiếng chứa những toa tàu lửa chạy pin, những chiếc xe tăng vừa chạy vừa quay nòng đại liên cùng những thứ đồ chơi hiếm hoi tương tự, cái thì do ba tôi, cái thì do những người cùng cơ quan với ba tôi đi công tác nước ngoài mua về làm quà.
So với anh Khánh, sở thích của tôi “quê mùa” hơn nhiều. Gia tài của tôi ngoài bể cá vàng, mấy hộp để đá, còn có một con sáo đang thời kỳ học nói. Trong những ngày chuẩn bị dọn nhà, con sáo của tôi đã bập bẹ được mấy tiếng “có khách, có khách” và “ba về, ba về” và thế là suốt ngày nó cứ nhảy nhót trong lồng và luôn miệng lặp đi lặp lại các từ đó, nghe đến điếc tai.
Mỗi lần thấy tôi lúi húi bên bể cá hoặc loay hoay với mấy con dế, anh Khánh thường bĩu môi chê tôi là “thằng nhà quê” khiến tôi tức điên lên, mặc dù suy cho cùng tôi không thể chối cãi rằng những sở thích của tôi bắt nguồn từ những tháng năm dài tôi sống với bà ngoại tôi ở dưới quê, trước khi về thành phố ở hẳn với ba mẹ tôi.
Trong tài sản của tôi, anh Khánh chỉ “chấm” mỗi con sáo. Anh thường gạ tôi đổi cho anh nhưng dù những lời đường mật của anh có ngọt ngào đến đâu và những món đồ chơi anh đem ra đổi có hấp dẫn đến bao nhiêu, tôi vẫn một mực lắc đầu. Rốt cuộc anh đành phải chấp nhận giải pháp “chơi chung”. Cái lồng sáo được treo ngay tại phòng học của hai anh em. Sau này, khi dọn về nhà mới, giải pháp “chơi chung” này bất ngờ bị đổ vỡ. Điều đó xảy ra vào một hôm, khi vừa thấy tôi đi học về, con sáo thân yêu của tôi đã vui vẻ chào tôi bằng cách rống lên tiếng “đ m” mất dạy khiến tôi hốt hoảng kinh và suýt chút nữa ngã lăn đùng ngay giữa nhà. Sau khi trấn tĩnh, tôi bắt đầu hiểu ra mọi chuyện và đoán được con sáo hiền lành của tôi đã bắt chước ngôn ngữ của ai. Vì vậy, ngay lập tức tôi tháo chiếc lồng xuống và đi một mạch ra sau vườn. Tôi trèo lên cây khế cạnh giếng nước, mắc chiếc lồng vào giữa chạc ba, cách mặt đất khoảng ba mét. Con sáo của tôi không tỏ vẻ gì phản đối việc tôi đưa nó ra đây, thậm chí nó còn nhảy nhót một cách sung sướng vì được nhìn thấy bầu trời, hoa lá, cỏ cây quen thuộc. Rồi có lẽ do không ngăn được niềm hứng khởi đang dâng lên trong lòng nên thấy tôi tụt xuống đất, sắp sửa đi vô nhà, con sáo của tôi vội vàng lên tiếng cảm ơn tôi bằng cái từ khủng khiếp kia khiến tôi phải đưa hai tay bịt tai lại.
Từ đó, con sáo sống luôn trên cây khế ngoài vườn. Còn tôi thì tìm cách “cải tạo” nó một cách vô vọng, chỉ mong rằng với thời gian, nó sẽ quên dần cái từ ngữ tai hại kia đi.

Nhưng đó là chuyện sau này. Còn vào hôm dọn nhà, con sáo của tôi vẫn còn trong sáng, miệng nói lui nói tới chỉ có hai từ “có khách, có khách” và “ba về, ba về”.
Vì niềm say mê của hai anh em tôi khác nhau như vậy nên trong quá trình thu xếp đồ chơi chuẩn bị đem theo, giữa chúng tôi đã không xảy ra một vụ đụng độ đáng kể nào. Anh Khánh lo chất các loại tàu xe vào hộp các- tông, tôi thì bận bịu với chiếc lồng chim, bể cá và các hộp diêm nhốt dế.
Chỉ đến khi mẹ tôi lôi ra từ dưới gầm giường gầm tủ và các ngóc ngách tối tăm khác những con gấu bông cũ xì, đồ gọt bút chì, chiếc ống kính vạn hoa đầy bụi thì hai anh em tôi mới nhảy xổ vào giành giựt nhau những thứ đã vứt đi ấy. Chúng tôi vừa giằng co nhau vừa tru tréo vang nhà khiến ba tôi bực mình giằng lấy mọi thứ và vứt hết vào thùng rác trước cặp mắt chẳng lấy gì làm tiếc rẻ của hai anh em tôi.
Trong khi chờ xe của cơ quan ba tôi đến chở đồ đạc đi, tôi và anh Khánh rủ nhau chơi trò rượt bắt quanh những chiếc tủ và những chiếc bàn đã được kéo ra giữa nhà. Rượt bắt chán, hai anh em tôi lại thi nhau nhảy qua những bao tải, những va- li, những hòm gỗ đủ cỡ được buộc chặt đang nằm ngổn ngang trên nền gạch.
Lợi dụng sự dễ dãi trời cho đó, anh em tôi càng hăng hái nhảy nhót tợn. Đó cũng là cách biểu lộ niềm vui của hai đứa tôi.
Qua hai lần đổi nhà trước đây, tôi hiểu rằng ngôi nhà chúng tôi sắp dọn đến chắc chắn lớn hơn và đẹp hơn ngôi nhà chúng tôi đang ở, mặc dù ba mẹ tôi không hề nói ra điều đó. Bao giờ ngôi nhà chúng tôi sắp đến cũng khang trang hơn ngôi nhà chúng tôi sắp rời bỏ. Nếu không vậy, ba mẹ tôi chẳng chạy vạy ngược xuôi lo đổi nhà làm gì, dù rằng dưới mắt tôi, ngôi nhà cũ cũng đã quá rộng và quá đầy đủ tiện nghi đối với một gia đình vỏn vẹn có bốn người như chúng tôi. Tuy vậy, như bất cứ một đứa trẻ mười bốn tuổi khác, tôi luôn luôn cảm thấy thích thú khi sắp sửa “chinh phục” một chỗ ở mới và lòng lúc nào cùng nôn nao mong ngày đó chóng đến.
Cũng nhờ kinh nghiệm của hai lần đổi nhà trước mà tôi có thể đoán chắc rằng ngôi nhà chúng tôi sắp đến ở chính là ngôi nhà mà bác Tám, thủ trưởng cơ quan của ba tôi, đã từng ở. Tôi vốn không hề chú ý gì đến công việc của người lớn nhưng có những công việc của người lớn cứ xảy ra ngay trước mắt bọn trẻ con, lặp đi lặp lại, thậm chí theo một trật tự ổn định và quen thuộc đến mức dẫu nhắm tịt mắt lại, tôi vẫn biết được mọi việc đang diễn ra chung quanh.

Chẳng hạn tôi biết chắc rằng sở dĩ bác Tám vui lòng từ giã ngôi nhà đẹp đẽ mà chúng tôi chuẩn bị dọn đến chính bởi bác vừa xin được một ngôi nhà khác đẹp đẽ hơn rất nhiều lần và rất có thể đó là một tòa biệt thự nguy nga xứng đáng với cương vị lãnh đạo của bác.
Và tôi cũng biết rằng trong khi chúng tôi dọn đến ngôi nhà cũ của bác Tám thì chú Tư, người phó thứ hai trong cơ quan sau ba tôi, sẽ vội vã dọn đến chỗ ở cũ của chúng tôi để nhường lại căn nhà cũ của mình cho nhân vật xếp kế sau chú.
Sự kế thừa trong lãnh vực nhà cửa sẽ tiếp tục diễn ra theo trình tự từ cao đến thấp như vậy, rốt cuộc người nào cũng thừa hưởng được một chỗ ở mới tốt hơn và điều tự nhiên là ai nấy đều tỏ ra hân hoan phấn khởi. Và khi niềm phấn khởi xẹp dần theo ngày tháng, bởi bản tính con người là không bao giờ bằng lòng với cái đã có, thì nhiều người, trong đó có ba tôi, lại mong cho vị lãnh đạo cao nhất trong cơ quan kiếm được một chỗ ở tốt hơn để sự hoán chuyển ba bốn bên cùng có lợi xảy ra thêm một lần nữa.
Tuy nhiên, cái chiến dịch dọn nhà vui vẻ này hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến các tầng lớp dưới. Chưa có một người nào trong số các nhân viên ở cơ quan ba tôi được hưởng ân huệ của quá trình “đôn lên” này. Họa may chỉ có một vài người thân cận với các thủ trưởng. Đa số còn lại đều nằm ngoài quá trình vận động tinh tế này.
Như cô Hương nhân viên đánh máy trong cơ quan ba tôi chẳng hạn. Hai vợ chồng và hai đứa con cả bốn, năm năm nay sống chen chúc trong một căn hộ nhếch nhác chừng chín mét vuông, thiếu cả ô- xy để thở, vậy mà sau hàng tá đơn gởi đến hội đồng phân phối nhà của cơ quan, gia đình cô vẫn chưa thoát ra được khỏi ổ chuột của mình.
Trong khi ba tôi và những người giống như ba tôi đổi hết ngôi nhà xinh xắn này đến ngôi nhà đẹp đẽ khác thì mỗi ngày sau giờ làm việc cô vẫn phải mệt mỏi dắt hai đứa con về căn hộ chật chội của mình, nơi có một ông chồng đêm nào cũng bỏ đi uống rượu vì không chịu nổi sự tù túng của căn nhà.
Dĩ nhiên, tất cả những điều tôi kể ra trên đây đối với tôi dù sao cũng là chuyện của người lớn. Nhân những lần vào chơi trong cơ quan của ba tôi, tình cờ nghe người lớn nói chuyện với nhau, hoặc có khi nghe thằng Hoành, con trai lớn của cô Hương, nhỏ hơn tôi hai tuổi, buột miệng than thở, tôi mới biết chuyện. Mặc dù người ta thì thào chẳng hay ho gì về ba tôi, tôi vẫn cảm thấy những điều họ nói không phải là không có lý. Nhưng vì tất cả những chuyện đó nằm ngoài khả năng của một đưá trẻ như tôi, trừ khả năng nhận biết, nên tôi chăng quan tâm đến chúng nhiều hơn chuyện đá dế của tôi.
Và hôm nay, trong khi chờ xe, tôi quên sạch sành sanh mọi lời dị nghị, vẫn nhảy nhót một cách thích thú như trong ngày lễ tết.
Đúng chín giờ, chiếc xe Ford xanh quen thuộc của cơ quan ba tôi trờ tới, đỗ ngay trước cổng.
Tôi và anh Khánh chạy ào ra, miệng hét to:
- Chú Hạnh! Chú Hạnh!
Chú Hạnh, tài xế chiếc xe Ford, vội vàng nhảy xuống đất, xoa đầu hai đứa tôi và lo lắng hỏi:
- Ba cháu đợi lâu không?
Tôi chẳng biết ất giáp gì, gật đầu đại:
- Lâu lắm rồi!
Nghi vậy, chú Hạnh hấp tấp rảo bước vào nhà.
Tôi và anh Khánh định quay vào thì từ trên thùng xe phía sau lục ục nhảy xuống mấy anh bảo vệ cơ quan, toàn là những người quen mặt. Tôi biết họ đến đây để khuân vác đồ đạc giúp ba tôi như những lần dọn nhà trước.
Quả vậy, lát sau tôi thấy họ khệ nệ khiêng chiếc tủ cẩm lai nặng chịch ra xe. Rồi tới chiếc tủ gõ màu cánh gián. Rồi bộ xa- lông đồ sộ.
Ba tôi đứng yên quan sát. Chỉ có mẹ tôi lúc nào cũng la hoảng:
- Nhẹ tay giùm mấy chú ơi!
- Coi chừng trầy cánh cửa tủ!
Mẹ tôi trông ngang ngó dọc, miệng hét chằm chặp, mồ hôi chảy thành giọt hai bên thái dương, trông còn vất vả hơn những người khuân vác.

Đồ đạc trong nhà tôi khá nhiều, xe phải chở làm mấy chuyến.
Mẹ tôi bảo hai anh em tôi đi chuyến đầu tiên, qua nhà mới đứng trông coi đồ đạc.
Tôi và anh Khánh nhảy cẫng lên vì khoái chí. Trước đây, chưa bao giờ hai đứa tôi được đến chơi nhà bác Tám, vì vậy đứa nào cũng nóng lòng muốn coi ngôi nhà mới nó ra làm sao.
Nhưng trước khi leo lên ca- bin ngồi cạnh chú Hạnh, tôi và anh Khánh cứ nằng nặc đòi đem theo mình cho bằng được những tài sản riêng của hai đứa tôi.
Sau một hồi quát tháo mỏi miệng nhưng không ăn thua gì, cuối cùng mẹ tôi phải bằng lòng cho anh Khánh khuân theo cái hộp các- tông đựng các loại xe cộ của anh. Còn tôi thì hí hửng xách chiếc lồng chim và nhờ chú Hạnh khuân cái bể cá đã đổ đi hơn phân nửa nước lên buồng lái, đặt ngay dươi chân tôi.
Đâu đó xong xuôi, xe bắt đầu nổ máy. Không ngoái lại nhưng tôi vẫn có thể hình dung ra ở thùng xe phía sau, các anh bảo vệ đang ngồi nhấp nhổm trên băng ghế, miệng mím lại còn tay thì ghì chặt những đồ gia dụng cồng kềnh của gia đình tôi. Chúng đã được ràng kỹ vào thành xe bằng những sợi thừng to tướng nhưng cũng như những tên tù nguy hiểm bị dẫn độ, dọc đường chúng có thể nổi khùng lên đập đầu đập cẳng vào thành xe, tự làm trầy trụa để hả dạ đứng xem mẹ tôi trách cứ những người áp tải dai dẳng như thế nào.

Hóa ra ngôi nhà mới không nằm xa chỗ ở cũ của chúng tôi là bao. Xe quẹo qua hai ngã tư là tới nơi.
Đó là một ngôi nhà gạch đúc hai tầng khá đẹp, nằm kế một con hẻm nhỏ. Mặt tiền nhà có bề ngang tương đối rộng. Phía trước có một khoảng sân không lớn lắm. Nền sân rải rác những ô tròn phủ một lớp đất sẫm và ướt. Tôi đoán đó là những chỗ trước đây bác Tám đặt những chậu hoa kiểng và khi dọn nhà đi bác đã đem theo.
Phía sau nhà là một khu vườn không rộng lắm nhưng khá dài, trồng nhiều loại cây ăn trái như mít, ổi, mận, khế…Những cây này khá lớn, ít ra cũng khoảng sáu, bảy tuổi trở lên, có lẽ do những người chủ xa xưa của chúng trồng. Khi chúng tôi đến, chắc là do gặp tháng trái mùa nên trên cây chẳng có trái gì ăn được. Ổi thì lưa thưa vài trái, trái lại nhỏ. Khế mới ra hoa. Chỉ có mận là trái hơi to to nhưng chắc còn chua. Những bụi chuối xum xuê nơi cuối vườn, cây thì mới trổ bắp, cây thì trĩu buồng nhưng trái còn xanh.
Khu vườn được rào xung quanh bằng các dây kẽm gai chăng trên những cọc sắt và cọc gỗ cắm xen kẽ, trên đó bò um tùm và hỗn độn một loại dây leo mà tôi không biết tên. Dãy hàng rào bù xù đó khiến cho khu vườn vốn đã đầy cây cối và cỏ dại càng thêm rậm rạp. Hiện trạng củ khu vườn chứng tỏ trước đây bác Tám chẳng quan tâm gì đến việc sửa sang mảnh đất phía sau này, có thể vì bác nghĩ mình chẳng an cư ở đây lâu.
Thú thật là tôi rất thích khu vườn này. Ngay từ lần đầu tiên đặt chân ra vườn, tôi đã vô cùng ngạc nhiên và xúc động khi nhìn thấy khung cảnh quen thuộc mà tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ gặp lại khi giã từ quê ngoại. Những cây khế vẫy những chiếc lá mảnh mai, những cây ổi vẫy những chiếc lá đậm chắc, còn những cây chuối thì vẫy những chiếc lá to như tai voi, tất cả cây cối trong vườn đều vẫy chào tôi với vẻ mừng rỡ thân thiện và tôi cũng vẫy tay chào lại chúng, lòng hân hoan khôn tả.
Sau khi ngồi bệt xuống bãi cỏ nghỉ mệt sau chuyến dọn nhà mặc dù tôi chẳng phải động tay động chân gì mấy tí, tôi đứng dậy lững thững dạo bước khắp vườn, vừa đi vừa căng ngực hít thở mùi cỏ dại và mùi đất ẩm hệt như đứa con khát khao thưởng thức mùi sữa mẹ, mặc dù thỉnh thoảng vẫn bị xộc vào mũi mùi xăng nhớt từ đâu tít ngoài đường lẩn thẩn bay vào.
Đang bước đi thơ thẩn dọc hàng rào cuối vườn, bất chợt tôi kêu lên một tiếng kinh ngạc. Trước mắt tôi, cạnh gốc khế là một cái giếng đá cũ xưa hệt như những cái giếng làng. Thành giếng thấp, lại phủ đầy rêu xám, đứng từ xa không thể nào nhìn thấy, nhất là tầm mắt bị khuất sau những vòm lá lúc nào cũng đong đưa.
Tôi bước lại ngồi trên thành giếng, dòm xuống. Nước giếng trong, bập bềnh bông khế và lấp lánh những giọt nắng rụng xuyên qua kẽ lá. Thỉnh thoảng một cơn gió thoảng qua, những bông khế lại lác đác rơi bám trên tóc tôi, một số khác rơi vào lòng giếng khiến mặt nước khẽ xao động và tôi cứ ngẩn người ngắm những vòng tròn glăn tăn xuất hiện và đuổi bắt nhau đến tận vách giếng, lòng bỗng thấy xao xuyến không cùng.

Cho đến khi rảo bước vào nhà, tôi vẫn bâng khuâng tự hỏi không hiểu người ta đào cái giếng này để làm gì trong khi ở thành phố nguồn nước máy quá ư thừa thãi. Nhưng rồi ngay sau đó tôi tự giải đáp rằng cái giếng này có lẽ được dùng vào việc tưới cây trong vườn. Và tôi tạm bằng lòng với cách giải thích của mình.
Khi tôi vào đến nhà, ba mẹ tôi đà có mặt. Nhìn đồ đạc bày la liệt trước sân, tôi đoán là mọi thứ của ngôi nhà cũ đã dược chuyển hết qua đây.
Các anh bảo vệ đang lăng xăng khiêng đồ đạc vào các phòng và kê dọn lại theo sự sắp xếp của mẹ tôi.
Đang bận rộn hướng dẫn các anh bảo vệ, chợt nhìn thấy tôi lò dò đi tới, mẹ tôi mắng ngay:
- Thằng quỷ con, từ nãy đến giờ mày biến đi đâu?
Tôi chỉ tay ra phía sau:
- Con chơi sau vườn.
Mẹ tôi nhăn mặt:
- Ngoài đó có gì mà chơi! Mày với thằng Khánh phải có mặt ở đây, xem thử bố trí phòng ốc thế nào để còn nhờ các anh đem giùm đồ đạc vào nữa chứ!
Bị mẹ mắng, tôi im re. Anh Khánh chạy lại nắm tay tôi kéo đi:
- Tao với mày lên lầu đi! Phòng của tao và mày ở trên này.
Như được giải thoát, tôi vội vàng đi theo anh Khánh. Chúng tôi băng qua hai căn phòng khá rộng – anh Khánh bảo đó là phòng khách và phòng ăn của chúng tôi – rồi leo lên một cầu thang hình vòng cung nằm sát tường.
Tầng lầu cũng khá rộng, có ba phòng nối tiếp nhau. Phía trước là một sân thượng xinh xắn, có lan can bằng sắt bao quanh. Theo lời anh Khánh, căn phòng đầu tiên, có cửa mở ra sân thượng là căn phòng của ba mẹ, hai căn phòng còn lại là của hai đứa tôi.
Nói xong, anh nhìn tôi bảo:
- Bây giờ tao với mày bốc thăm. Tao xé hai mẩu giấy, ghi số 1 và 2. Đứa nào bốc nhằm số 1 thì ở phòng giữa, đứa nào bốc nhằm số 2 thì ở phòng sát phía sau. Mày chịu không?
Tôi không nói chịu hay không, mà hỏi lại:
- Nhưng anh thì anh thích ở phòng nào?
Anh Khánh khịt mũi:
- Tao hả? Tao thích ở phòng giữa.
Tôi gật đầu liền:
- Vậy thì anh ở phòng giữa đi! Em ở phòng đằng sau cho!
Anh Khánh tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Bữa nay sao mày tử tế quá vậy! Bộ mày không thích ở phòng giữa hả?
Tôi thừa nhận:
- Ừ. Em thích phòng phía sau hơn.
Anh Khánh tò mò:
- Phòng đó có gì mà thích?
- Có…có cửa sổ trông ra vườn.
Anh Khánh càng thắc mắc:
- Mày trông cái gì ngoài đó?
Tôi ấp úng:
- Thì trông…cây.
Anh Khánh tỏ vẻ thất vọng trước lý do tầm thường của tôi. Anh nhún vai:
- Hừ, tưởng gì! Nếu chỉ có mỗi cái khoản trông cây thì ở phòng giữa khoái hơn nhiều!
Tôi ra vẻ hiểu biết:
- Ở phòng giữa ấm hơn chứ gì!
- Ừ thì ấm hơn. Nhưng cái quan trọng là ở phòng giữa đỡ phải sợ…ma. Ban đêm nằm ngủ, hai bên đều có người.
Nghe anh Khánh nói, tôi đâm chột dạ và bất giác đưa mắt nhìn ra vườn. Hồi ở dưới quê, tôi nghe chuyện ma riết cũng đâm sợ. Về thành phố một thời gian, sống giữa bầu không khí náo nhiệt, điện đóm sáng choang, xe cộ ầm ầm suốt ngày, tôi quên béng chuyện ma cỏ. Bây giờ bỗng nhiên nghe anh Khánh nhắc, tôi cũng hơi hồi hộp.
Nhưng khu vườn trước mắt tôi hiền lành xiết bao. Nhìn ngắm những vòm lá xanh tươi lấp lánh dưới ánh nắng một lát, tôi dần dần yên tâm trở lại. Tôi nói với anh Khánh, giọng nhẹ nhõm:
- Vậy là em ở phòng sau hén?
Tất nhiên anh Khánh không phản đối. Thậm chí tôi còn đọc được trong đôi mắt anh sự thán phục đối với tính gan lì của tôi.
Thỏa thuận xong, hai đứa tôi rủ nhau đi coi phòng.
Phòng tôi và phòng anh Khánh giống hệt nhau. Căn nào cũng xinh xắn và rộng rãi, thừa chỗ để kê giường, tủ và bàn học. Hai căn phòng chỉ khác nhau một điểm duy nhất: cửa sổ phòng anh Khánh mở ra con đường hẻm cạnh nhà, còn cửa sổ phòng tôi thì mở ra khu vườn xanh ngát phía sau.
Hai anh em vừa dọ dẫm quanh phòng vừa sờ tay lên bức tường mát rượi, miệng trầm trồ thích thú. Như vậy là kể từ hôm nay, mỗi đứa tôi sẽ có một căn phòng riêng, hệt như người lớn. Chúng tôi sẽ ngủ trên những chiếc giường riêng của mình, mặc tình lăn qua lăn lại, xoay ngang xoay dọc, khỏi sợ làm phiền ai. Sẽ không còn tình trạng người này nằm ngủ gác chân lên mặt người kia và suốt đêm cứ vang lên chằm chặp tiếng la lối vì những cú giật mền thô bạo.

Chỉ có khoản học là chúng tôi phải học chung trong căn phòng dưới nhà, nơi mà anh Khánh bắt tôi phải treo chiếc lồng sáo ở đó để “chơi chung”. Theo ý kiến của ba tôi, hai người học chung với nhau bao giờ cũng hứng thú hơn là một người, đồng thời hai anh em tôi có cơ hội kiểm soát lẫn nhau để nếu có đứa nào ngủ gục hoặc trốn học chuồn đi chơi thì đứa kia báo lại cho ba tôi.
Trong khi hai đứa tôi còn loay hoay trong phòng thì các anh bảo vệ đã khiêng đồ đạc lên tới. Có tiếng hỏi to ngoài cửa:
- Cái tủ này đem vào phòng nào đây?
Tôi và anh Khánh tức tốc chạy ra.
Thấy chiếc tủ đứng chắn ngang cửa, anh Khánh chỉ tay về phía phòng tôi:
- Cái tủ này của thằng Kha, khiêng vô phòng kia!
Rồi nhác thấy cái bàn của mình vừa ló lên khỏi cầu thang, anh ngoắc lia:
- Đem lại đây! Khiêng cái bàn đó vô phòng này!
Trong khi anh Khánh đang sai khiến các anh bảo vệ theo phong cách “chỉ huy” của mẹ tôi, tôi chạy ù xuống nhà. Tôi sực nhớ đến cái bể cá và chiếc lồng sáo của mình. Từ khi dọn nhà qua đây đến giờ, tôi quên bẵng việc thay nước cho những con cá yêu quí của tôi, chẳng hiểu chúng đã bị chết ngạt chưa.
Như để làm dịu bớt nỗi lo của tôi, vừa thấy tôi đến bên cạnh, những con cá khôn ngoan kia liền quẫy mạnh chiếc đuôi đẹp đẽ của mình và lượn lờ bơi qua bơi lại trong bể nước cạn. Còn con sáo láu lỉnh thì nhảy nhót quanh lồng với vẻ mừng rỡ, thậm chí nó còn bám cả lên vách lồng với tư thế nghiêng người, miệng tía lia “có khách, có khách”, “ba về, ba về” khiến các anh bảo vệ vừa từ trên lầu đi xuống phải đảo mắt ngó quanh.
Lát sau, anh Khánh hộc tốc chạy xuống. Có lẽ cũng như tôi, trong khi sắp xếp đồ đạc và bài trí căn phòng, anh sực nhớ đến thùng đồ chơi của mình.
Y vậy, vừa xuống khỏi cầu thang, anh lao ngay đến thùng các- tông nằm kế bể cá của tôi. Anh cầm sợi dây buộc giật giật mấy cái rồi ngó tôi:

- Mày lục lọi gì trong thùng đồ chơi của tao phải không?
Tôi đỏ mặt:
- Em có lục gì trong đó đâu.
Anh nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ:
- Tao nhớ hồi sáng tao buộc dây thật chặt, sao bây giờ nó lỏng thế này?
- Em đâu biết.
- Chứ không phải mày vừa lấy món gì trong này hả?
Câu hỏi trắng trợn của anh Khánh khiến tôi nhăn mặt:
- Em lấy đồ chơi của anh làm gì! Em có lấy, mai mốt anh cũng giật lại vậy!
Anh Khánh nhún vai:
- Bây giờ mày có phòng riêng, mày len lén mày chơi trong đó làm sao tao biết!
Bị nghi ăn cắp, tôi tức điên lên nhưng chẳng biết phải làm gì. Tôi bèn bĩu môi:
- Em thèm vào đồ chơi của anh! Em thích bể cá, chiếc lồng sáo và những con dế của em hơn.
Nói xong, tôi cầm chiếc lồng sáo đi lên lầu.
Thấy tôi bỏ đi, anh Khánh ôm thùng đồ chơi lẽo đẽo đi theo. Vừa đi anh vừa làu bàu hăm dọa:
- Lát nữa tao mở thùng đồ chơi ra, nếu thiếu một món nào mày sẽ biết tay tao!
Tôi hừ mũi:
- Thì anh cứ mở ra đếm lại đi! Càu nhàu hoài!
Và tôi đưa tay bịt tai lại, tỏ ý không thèm nghe những lời nhấm nhẳng khó chịu của anh.
Dĩ nhiên là đồ chơi của anh Khánh không thiếu một món nào. Sau khi mở thùng, tẩn mẩn lấy ra từng chiếc xe một, vừa lấy vừa đếm, thấy chúng vẫn còn đầy đủ, anh Khánh chạy qua phòng tôi cười hì hì:
- Còn đủ cả, Kha ơi! Vậy là mày không lấy cắp!
Lòng đầy giận dỗi, tôi giả vờ như không nghe thấy. Đứng trên chiếc ghế kê cạnh cửa sổ, tôi loay hoay tìm cách treo chiếc lồng sáo, mắt không thèm liếc về phía cửa phòng lấy một li.

Ngoài bể cá vàng, chiếc lồng sáo và những hộp dế, gia tài của tôi còn có một ngăn sách nhỏ. Đó là những cuốn sách do chính tay tôi mua bằng tiền xin mẹ hoặc tiền nhịn quà sáng. Trước đây, những cuốn sách của tôi đặt trong chiếc tủ chung ở phòng học của hai anh em. Nhưng từ khi có phòng riêng, tôi đem chúng về phòng mình. Anh Khánh chẳng ham thích gì chuyện đọc sách nên không hề ngăn cản hành động tư hữu đó của tôi.
Ngăn sách của tôi không nhiều nhưng hầu như cuốn nào tôi cũng thích. Có những cuốn tôi đọc đi đọc lại nhiều lần mà vẫn không chán như “Đất rừng phương Nam” hay “Rô- bin- sơn Cơ- ru- xô”.
Từ khi có căn phòng riêng, mỗi buổi chiều tôi thường ngồi đọc sách trên chiếc bàn đặt cạnh cửa sổ. Tiếng gió thoảng, tiếng lá xào xạc và tiếng chim hót líu lo bên tai dường như khiến cho những trang sách sinh động hẳn lên và trong trạng thái êm dịu tuyệt vời đó, tôi tha hồ để cho trí tưởng tượng bay xa.
Nhiều khi tôi đem sách ra cuối vườn ngồi đọc, túi không quên nhét theo mấy hộp dế để khi nào đọc sách chán, tôi lôi chúng ra khích chúng đá nhau và tận tình cổ vũ cho cả hai phía.

Mỗi khi ra vườn, tôi thích ngồi bệt xuống trên cỏ, mặc dù không ít lần tôi bị Mẹ mắng về tội làm dơ quần áo. Nhưng không hiểu sao tôi không cưỡng lại được thói quen đó. Có lẽ trước đây trong những trường hợp như vậy, ngoại tôi chẳng bao giờ mắng tôi. Cho nên tới nay, hễ len lỏi giữa màu xanh cây lá, tôi như chìm đắm vào thế giới quen thuộc với những hương vị quen thuộc và thế là cánh mũi tôi hấp háy và tôi lại ngồi bệt xuống cỏ.
Cũng có khi tôi ngồi đọc sách trên thành giếng mặc dù khi ngồi trên những tảng đá ẩm ướt rêu đó, tôi nhìn vào trang sách thì ít mà ngắm những bông khế dập dềnh trong lòng giếng thì nhiều. Mặt nước trong vắt được trang điểm bởi màu vàng của lá và màu trắng của bông khế với đường viền xanh rêu chung quanh đối với tôi cũng là một trang sách kỳ diệu không kém và tôi đọc chúng không chán mắt.
Không những đọc sách dưới đất, tôi còn đọc sách ở trên trời. Đó là những lúc tôi nổi máu nghịch ngợm trèo lên cây ổi già, sách giắt nơi cạp quần, và sau khi chọn được một chạc ba chắc chắn, tôi ngồi tựa lưng vào thân cây, chân thõng lơ lửng trong khoảng không, giở sách ra đọc. Có hôm tôi ngồi vắt vẻo như vậy đến hàng giờ, vừa đọc sách vừa nhâm nhi vị chát của ổi non.
Một điều may mắn đối với tôi là khu vườn phía sau với khoảng sân đằng trước không hề ăn thông với nhau do hai bên hông nhà đều bị bịt kín, không có lấy một lối đi nhỏ. Hông bên trái đụng ngay nhà hàng xóm, gần như chung vách, hông bên phải tiếp giáp với con hẻm. Nhờ vậy, cái không khí huyên náo ở phía trước không có cơ hội lây lan đến cuộc sống yên tĩnh của khu vườn và tôi mặc sức thả hồn theo những giấc mơ điền dã.
Anh Khánh chẳng mê gì khu vườn. Ngày mới dọn đến, anh còn rảo ra vườn được mấy lần, nghiêng nghiêng ngó ngó. Sau một hồi lùng sục, anh phát hiện ra những chùm mận đầu mùa thưa thớt trên cao. Thế là anh hăm hở trèo lên và hái một lúc đến bốn, năm trái. Nhưng sau khi cho một trái vào miệng cắn thử, anh nhăn mặt tít cả mắt và vội ném tất cả những trái mận vừa hái ra xa.
Tôi cười hỏi:
- Chua hả?
- Ừ, chua lè! Dòm bên ngoài, tao cứ tưởng chín!
Nói xong, anh bỏ vào nhà một mạch. Từ hôm đó, tôi không thấy anh bén mảng ra sau vườn nữa. Anh thích chơi trong nhà hoặc trước hiên hơn. Chính ở đó, những chiếc xe của anh mới tung hoành được. Chúng không thể chạy trên những mặt đất lồi lõm, càng không thể chạy trên cỏ.
Chỉ thỉnh thoảng, anh mới chạy ra vườn, chủ yếu để xem những trái mận đã chín chưa và bao giờ anh cũng quay vào với vẻ mặt thất vọng.
Cũng như anh Khánh, ba mẹ tôi ít đặt chân đến mảnh đất phía sau nhà. Không phải vì hai người không quan tâm đến khu vườn nhưng mẹ tôi hiện nay đang bận rộn trong việc khai thác ưu thế của mặt tiền ngôi nhà trong việc kinh doanh. Việc chạy tới chạy lui chuẩn bị cho công việc làm ăn chiếm hết thì giờ của mẹ. Còn ba tôi, với tầm nhìn xa rộng của mình, thì tuyên bố rằng sắp tới ông sẽ cho đốn tất cả các loại cây vô bổ đang có trong vườn để thay vào đó các loại cây kinh tế hơn hoặc cũng có thể ông sẽ thực hiện những công trình xây dựng trên cái phần diện tích dự trữ đó. Và sở dĩ cho đến hôm nay, ba tôi chưa đả động gì đến khu vườn là vì ông đang còn phải tham khảo thêm ý kiến của bạn bè.
Tôi đón nhận dự định khủng khiếp đó của ba tôi với nỗi đau khổ vô bờ bến. Đau khổ nhất là trong những vấn đề như thế này, một đứa trẻ con như tôi không được phép có ý kiến, nhất là những ý kiến có tính chất phản kháng. Trong những ngày đó tôi buồn bã như một con chó ốm. Trừ buổi sáng phải đến lớp, suốt thời gian còn lại trong ngày, tôi tha thẩn ở ngoài vườn. Tôi thì thầm trò chuyện với những chiếc lá, thông báo cho chúng biết số phận nghiệt ngã sắp xảy ra với khu vườn đồng thời an ủi chúng bằng một giọng sụt sùi cố nén. Đáp lại sự lo lắng của tôi, những chiếc lá khẽ cựa mình vung vẩy trong gió như muốn an uỉ lại tôi bằng thứ ngôn ngữ rì rào của chúng. Điều đó khiến lòng tôi nhẹ nhõm được đôi chút.
Trong khi cùng chờ đợi cơn ác mộng xảy đến, tôi và khu vườn càng ngày càng trở nên thân thiết. Chúng tôi gắn bó với nhau và hiểu ý nhau như những người bạn quen thân từ thời thơ ấu.

Suốt một tháng trời sau đó, tôi vẫn sống trong tâm trạng phập phồng. Nhưng rồi nỗi lo âu mỗi ngày một giảm bớt khi tôi nhận thấy ba tôi vẫn chưa tỏ vẻ gì sắp bắt tay vào thực hiện ý định của mình. Có lẽ ông đang còn lưỡng lự trước khi quyết định dứt khoát sẽ cải tạo khu vườn theo hướng nào.
Lúc này, đánh bạn với tôi ngoài vườn còn có con sáo thân yêu của tôi. Sau cái ngày tôi phát hiện ra nó đã kịp bắt chước những từ ngữ không đẹp đẽ gì của anh Khánh, tôi liền đem nó ra ngoài vườn và treo chiếc lồng trên cây khế cạnh giếng đá. Anh Khánh tức lắm nhưng không dám làm gì tôi vì sợ tôi nói lộ ra chuyện chửi thề của mình.

Từ ngày con sáo ra đây, tôi dạy nó nói thêm được bốn câu mới “chào anh Kha”, “chào anh Khánh”, “đói bụng” và “khát nước”. Con sáo của tôi học nói rất mau nhưng khổ nỗi nó không làm sao học được cách sử dụng những câu nói đúng chỗ, đúng lúc. Thấy tôi, có khi nó nói “chào anh Kha” nhưng lúc hứng lên nó lại “chào anh Khánh” khiến tôi tức điên lên. Cũng vậy, rất nhiều lần nó gào toáng lên “khát nước” làm như sắp chết khát đến nơi nhưng khi tôi vội vã đem nước lại thì nó ngó lơ đi chỗ khác y như muốn chọc quê tôi. Tôi đã cố gắng hết sức giảng giải cho nói hiểu khi nào thì nên nói câu này, lúc nào thì nên nói câu kia và trong những lúc đó, như để đáp lại sự kiên nhẫn của tôi, nó đứng yên lặng nghiêng đầu lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật gù tỏ vẻ hiểu biết khiến tôi cảm động và mừng rỡ vô cùng. Nhưng lần nào cũng vậy, sau khi giảng giải đến khô cả cổ, tôi bảo nó thực hành, nó lại nhìn tôi và hét lên vui vẻ “chào anh Khánh” làm tôi chán nản đến mức sau đó tôi chỉ ăn được có một chén cơm.
Tuy vậy, tôi vẫn rất mến nó bởi tôi hiểu dù sao nó cũng chỉ là một con vật. Một con vật thì không thể nào buộc nó phải thông minh như con người. Thôi thì kệ nó, nó muốn nói gì thì nói, miễn đừng nói bậy là được rồi! Tôi nghĩ vậy và chẳng còn bứt rứt về chuyện nó kêu tôi là “anh Khánh” nữa.
Độ rày, tôi phải đi học thêm mỗi tuần ba buổi chiều, vì vậy thì giờ tôi dành cho khu vườn ít hơn. Nhưng cũng chính vì vậy những buổi chiều còn lại, thời gian tôi ở ngoài vườn lâu hơn. Có khi tôi ngồi đọc sách đến sáu giờ, sáu giờ rưỡi, lúc ban ngày và ban đêm bắt dầu giao nhau và những dòng chữ trên trang sách không còn trông rõ nữa, tôi mới lững thững quay vào nhà. Bây giờ, những câu chuyện ma quái của anh Khánh không còn làm tôi sợ hãi nữa. Khu vườn đã trở nên thân thiết với tôi đến mức tôi hoàn toàn tin cậy nó và tôi nghĩ rằng nếu không sợ bị mẹ mắng tôi có thể nằm ngủ qua đêm trên những chiếc nệm cỏ ngoài vườn một cách thanh thảnh với nhiều giấc mơ đẹp.
Vào một buổi chiều nọ, lúc đó có lẽ khoảng bốn giờ hay hơn một chút gì đó, tôi đang đi tha thẩn ở mé vườn phía bên nhà hàng xóm, mắt nhìn đăm đăm lên những tàng mít để xem thử có cái dái mít nào không, hái xuống chấm muối ăn chơi, thì bỗng nghe có tiếng sột soạt vọng lại từ mé vườn bên kia, phía con hẻm.
Thoạt đầu tôi không để ý nhưng tiếng sột soạt cứ chốc chốc lại vang lên khiến tôi lấy làm lạ. Tôi bước tới một vài bước, kiễng chân lên nhìn xuyên qua kẽ lá và điều vừa trông thấy khiến tôi giật bắn người, suýt chút nữa miệng bật ra tiếng la hoảng.
Đứng cạnh giếng là một con nhỏ lạ hoắc. Nó mặc bộ đồ bông, da ngăm đen, tóc ngắn ngang vai. Trông bộ dạng của nó, tôi đoán nó trạc cỡ tuổi tôi hoặc nhỏ hơn tôi một, hai tuổi gì đó. Sự xuất hiện bất thần của nó khiến tôi bàng hoàng tự hỏi không biết từ lúc nào và bằng cách nào nó lọt được và khu vườn của tôi.
Lúc đầu tôi nghi nó là ăn trộm nhưng sau khi âm thầm quan sát một hồi, tôi biết là không phải. Một tên trộm thì cặp mắt phải láo liên, cử chỉ phải vụng trộm và hành động luôn luôn lén lút nhưng ở con nhỏ này tất cả đều ngược lại. Chẳng tỏ vẻ gì vội vã, nó đi quanh quẩn bên những gốc cây bằng những bước chân thong thả, chốc chốc lại ngước mắt nhìn lên những vòm lá trên cao khiến tôi cứ tưởng nó định trèo lên hái trộm mận. Nhưng rồi nó lại cúi đầu xuống dòm dáo dác như định tìm kiếm một cái gì đó trong cỏ.
Tôi vẫn đứng lặng lẽ sau bụi cây, nín thở theo dõi những hành động lạ lùng của nhân vật bí ẩn kia. Bây giờ nó lại đi lòng vòng quanh giếng. Đang đi, thình lình nó dừng lại và cúi xuống nhặt cái gì đó dưới đất. Khi nó đứng lên, tôi căng mắt cố nhìn xem cái vật nó vừa nhặt là khối vàng hay khối kim cương. Hóa ra đó chỉ là một chiếc lá vàng.
Con nhỏ cầm chiếc lá đi lại bên giếng đá và thả xuống. Rồi bám hai tay vào thành giếng, mắt đăm đăm nhìn ngắm chiếc lá đang bập bềnh dưới kia, nó cứ đứng hoài như vậy. Mặc dù đứng cách con nhỏ một quãng khá xa, tôi vẫn có thể nhìn thấy vẻ thích thú trên khuôn mặt ngăm ngăm của nó. Và tôi cũng hình dung ra chiếc lá nó vừa thả trong lòng giếng lúc này hẳn đang bềnh bồng trên mặt nước hệt như một chiếc thuyền câu. Đã mấy lần tôi định dợm châm chạy lại đứng bên cạnh nó, dòm xuống giếng, xem thử chiếc lá chìm nổi thế nào. Ý muốn đó cứ trào lên trong lòng, thôi thúc mãnh liệt đến mức phải hết sức vất vả tôi mới ghìm lại được.
Nhưng niềm vui của con nhỏ không kéo dài được lâu. Trong khi nó đang ngẩn ngơ thả hồn theo chiếc lá thì con sáo của tôi thình lình phá đám. Con sáo chắc ngủ mê từ nãy đến giờ, bỗng thức dậy thấy người, liền la hoảng “có khách, có khách”. Nghe tiếng kêu thất thanh, con nhỏ choàng tỉnh khỏi giấc mơ, ù té chạy. Tôi chưa kịp can thiệp thì nó đã vọt tới sát hàng rào cạnh con hẻm, vẹt một lỗ hổng, chui ra. Cho đến khi tôi đuổi kịp tới hàng rào thì nó đã biến mất.
Đứng ngẩn ngơ một hồi, chẳng biết làm gì, tôi ngồi xuống tò mò quan sát chỗ hàng rào con nhỏ vừa chui qua. Hóa ra chỗ này thiếu một cây cọc. Muốn vào vườn, người ta chỉ cần nới rộng hai sợi kẽm gai chăng ngang rồi vẹt bụi dây leo lòa xòa là lọt vào được ngay.
Nhưng việc phát hiện ra lối đi bí mật đó không khiến tôi ngạc nhiên bằng việc tại sao con nhỏ kia có thể nhìn thấy cái lỗ hổng bị dây leo phủ kín như thế và nó chui vào khu vườn của tôi để làm gì.

Từ đó cho đến tận khi trời chập choạng tối, tôi ngồi thẫn thờ trong bóng chiều, lòng miên man nghĩ tới nhân vật lạ lùng nọ. Hàng trăm câu hỏi thi nhau mọc ra trong đầu tôi và tôi chẳng trả lời được câu hỏi nào. Tôi không thể nào biết nó là ai và từ đâu đến. Lúc nãy, nếu bất thần chạy vụt ra, tôi có thể làm cho nó hốt hoảng và thừa cơ tóm được nó. Và dĩ nhiên, tôi sẽ vén màn bị mật được ngay. Nhưng thú thật, lúc đó tôi không muốn làm cho nó sợ hãi. Không hiểu sao tôi không cảm thấy ghét nó mặc dù nó dám xâm nhập lén lút vào lãnh địa của tôi. Ngược lại, tôi cảm giác tôi có thiện cảm với nó nữa là khác. Có lẽ do tôi nhìn thấy ở nó có nhiều điểm giống tôi. Cũng đi thơ thơ thẩn thẩn quanh các gốc cây như một tên lãng tử. Cũng nhìn khu vườn bằng ánh mắt thân thiện và ấm áp như nhìn một người bạn. Cũng vẩn vơ nhặt một chiếc lá vàng thả vào lòng giếng rồi đứng ngắm hàng giờ không biết chán. Tôi chỉ khác nó một điểm là tôi biết những tiếng “có khách, có khách” vang lên thất thanh kia là tiếng chim chứ không phải tiếng người và vì vậy tôi không có sợ vãi mật ra như nó.
Tối đó, tôi kể cho anh Khánh nghe câu chuyện vừa xảy ra ngoài vườn. Nghe xong, anh rụt cổ:
- Vậy đích thị là ma rồi!
Tôi bĩu môi:
- Ma đâu mà ma! Ma mà chui hàng rào!
- Nó thích chui thì nó chui, ai cấm được!
- Xì, nói vậy mà cũng nói! Giờ đó không thể nào có ma được. Em từng sống dưới quê em biết, ma chỉ xuất hiện lúc mười hai giờ trưa và mười hai giờ khuya thôi.
- Chứ lúc con nhỏ đó xuất hiện là mấy giờ?
- Khoảng bốn giờ.
- Vậy thì nó là ăn trộm! – Anh Khánh khẳng định.
- Không phải đâu! – Tôi kêu lên.
Anh Khánh nheo mắt ngó tôi:
- Sao mày biết là không phải?
- Sao không biết! Nếu ăn trộm thì nó phải lấy trộm cái gì chứ! Ở đây nó chỉ nhặt lá thả xuống giếng thôi!
Nói xong, tôi ngạc nhiên nhận ra mình đã bênh vực cho con nhỏ kia một cách hăng hái. Những điều tôi nói không thuyết phục đuợc anh Khánh. Anh hừ giọng:
- Mày ngu quá! Không có ai khùng đến mức chui vào vườn người ta chỉ để nhặt lá thả xuống giếng chơi cho vui. Đích thị nó là ăn trộm. Nó chỉ làm bộ như vậy để đánh lừa mày thôi.
Tôi phản đối:
- Nó có đánh lừa gì em đâu?
Anh Khánh nhìn tôI bằng ánh mắt thương hại:
- Hóa ra đến giờ mày vẫn chưa biết là mày bị lừa! Con nhỏ đó nó giả bộ khùng khùng để rủi mày có bắt gặp nó ở trong vườn mày sẽ không nghĩ nó là kẻ gian, còn nếu như mày không trông thấy nó hoặc nó không bị con sáo làm cho hoảng sợ thì trước sau gì nó cũng mò vào tận trong nhà để đánh cắp một vài món gì đó.
Lời giải thích của anh Khánh chắc nịch như đinh đóng cột. Nghe anh nói, tôi có cảm tưởng như con nhỏ đó đã từng vào nhà tôi ăn cắp mấy lần rồi. Thấy vì cái tật bép xép của mình mà nó bị gán cho tội ăn trộm, tự nhiên tôi thấy tội nghiệp con nhỏ đó quá chừng.
Tuy nhiên, tôi không muốn cãi nhau với anh Khánh. Tôi biết cãi nhau một hồi, thế nào anh cũng át giọng tôi. Xưa nay vậy. Tôi cũng không định nói chuyện đó cho ba mẹ tôi biết. Bởi vì đằng nào ba mẹ tôi cũng sẽ đứng về phía anh Khánh. Tôi vốn biết rõ tâm tính của ba mẹ tôi. Chắc chắn hai người sẽ không bao giờ tin rằng có một người lẻn vào vườn của người khác mà l.ai không có một ý đồ ám muội nào. Và thế là con nhỏ khùng khùng kia sẽ bị kết tội thêm một lần nữa.
Tôi đã định ém nhẹm mọi chuyện, không ngờ trong bữa ăn tối anh Khánh lại lôi ra. Tôi chỉ biết ngồi im thin thít và giương cặp mắt lo âu lên nhìn mọi người.
Quả đúng như tôi nghĩ, nghe anh Khánh kể xong, mẹ tôi liền quắt mắt nhìn tôi:
- Sao con ngốc quá vậy! Lần sau nếu thấy có ai chui vào vườn, con phải hô hoán lên cho mọi người chạy tới tóm cổ nó.
Tôi thanh minh, giọng yếu ớt:
- Nhưng con nhỏ hồi chiều đâu phải là ăn trộm.
Tôi chưa nói dứt câu, mẹ tôi đã nạt ngang:
- Làm sao con biết nó không phải là ăn trộm?
Mẹ tôi giống hệt anh Khánh. Tôi đành câm miệng như hến. Nhớ đến cung cách phân tích hùng hồn của anh Khánh khi nãy, tôi cảm thấy lạnh người và biết rằng mình không thể chứng minh được điều mẹ tôi đòi hỏi.
Thấy tôi ngồi im, mẹ tôi nói tiếp:
- Tụi ăn trộm bây giờ chúng khôn lắm! Có khi chúng đi một bọn bốn, năm dứa và chúng cho một đứa vào trước dò la động tĩnh. Hễ thấy êm êm là chúng hè nhau ùa vào! – Rồi mẹ tôi tặc lưỡi kết luận – Con nhỏ hồi chiều có thể là đứa dò thám trong bọn.
Trong khi mẹ tôi luận tội, tôi cắm cúi và cơm, cổ họng như nghẹn lại.
Ngay từ đầu, ba tôi dường như chẳng để ý gì đến cuộc trò chuyện đang diễn ra giữa mẹ con tôi. Tôi thấy ông nghe với vẻ lơ đãng. Nhưng khi mọi người nói xong, ông chợt nhỏm người lên và như thường lệ, giành cho mình quyền nói lên tiếng nói quyết định cuối cùng:
- Sắp tới tao thả trong vườn một, hai con béc- giê là xong! Dãy hàng rào cũng phải xây lại cho kiên cố nhưng còn chờ cải tạo xong khu vườn đã.

Lời tuyên bố của ba tôi khiến tôi rầu rĩ khôn cùng. tôi vốn yêu chó, nhưng đó là những con chó hiền lành và gần gũi như con Mực, con Vện của ngoại tôi. Còn giống chó béc- giê, tôi chúa ghét. Hồi ở dưới ngoại, mỗi lần có việc đi ngang nhà lão Cả Tiệm, thấy bầy chó béc- giê hung dữ và to đùng như bầy sư tử trong nhà lão xồ ra là tôi tái xanh mày mặt và vắt giò lên cổ chạy như bị ma đuổi. Vậy mà bây giờ, ba tôi lại tính nuôi cái giống quái vật đó ở trong vườn và mọi chuyện xảy ra chỉ vì cái con nhỏ bị nghi là ăn trộm kia.
- Có nuôi thì nuôi chó thường thôi ba! – Cuối cùng, tôi đánh bạo đề nghị – Chó béc- giê trông dữ thấy mồ!
Ba tôi hắng giọng:
- Hừm! Thằng này nói lạ! Chó dữ thì ăn trộm mới sợ chứ! Vả lại nhà mình mà nuôi chó thường coi sao được! Bác Tám, chú Tư mày đều toàn là nuôi chó béc- giê!
Biết có năn nỉ cũng chẳng được, tôi lại cúi xuống tiếp tục và cơm. Dường như tôi muốn ngậm đầy cơm trong miệng để khỏi phải phát biểu lôi thôi, chẳng ai nghe đã đành mà có khi còn bị mắng nữa không chừng.
Nhưng cái ngày lắm chuyện đó chưa kết thúc với tôi. Trước khi đi ngủ, tôi còn nhận được một mệnh lệnh từ mẹ tôi:
- Ngày mai thằng Kha phải kiếm mấy cây cọc bịt cái lỗ hổng chỗ hàng rào đó lại nghe chưa!

Mẹ tôi kêu tôi bịt cái lỗ hổng chỗ hàng rào nhưng tôi cứ nấn ná hoài chưa chịu ra tay. Trong thâm tâm tôi có ý đợi xem con nhỏ đó có trở lại “thăm” tôi lần nào nữa không. Mặc cho anh Khánh bảo nó là tên trộm và mẹ tôi bảo nó là tên dò thám, tôi vẫn chẳng thấy nó giống như vậy chút nào. Với tôi, nó luôn luôn là một đứa hiền lành. Nó chỉ mắc mỗi cái tật khùng khùng giống như tôi mà thôi.
Sau ngày hôm đó, chiều nào tôi cũng ở lì ngoài vườn đến tối mịt trong một tâm trạng mong ngóng hồi hộp. Tôi ngồi bệt trên cỏ, lưng tựa vào gốc khế, sách mở trên tay nhưng tôi chẳng đọc được chữ nào, mắt cứ đăm đăm nhìn về phía lỗ hổng bí mật, thấp thỏm chờ đợi một cái đầu có khuôn mặt ngăm ngăm nhô ra. Suốt mấy ngày liền, tôi đợi dài cả cổ nhưng chẳng được tích sự gì. Có thể chuyện xảy ra hôm nọ đã khiến con nhỏ kia sợ hãi đến mức không bao giờ dám quay trở lại khu vườn này nữa. Hoặc cũng có thể nó là một hình bóng không thực và những điều mà tôi ngỡ chính mắt tôi trông thấy kia chỉ là những ảo ảnh trong một giấc mơ chiều.
Thế rồi tôi quên béng đi mất. Quên con nhỏ nọ. Quên cả việc rào lại hàng rào. Mẹ tôi nhắc nhở hai, ba lần, tôi chỉ ừ ào cho qua. Tôi biết mẹ tôi chẳng bao giờ cất công ra tận cuối vườn để kiểm tra việc làm của tôi. Vả lại, mẹ đang chờ đội quân bảo vệ ba tôi đang lùng mua. Với những con chó béc- giê hung hãn đó trong vườn thì cái lỗ hổng nhỏ nhoi kia chẳng có gì đáng ngại.


Đọc tiếp: Thiên thần nhỏ của tôi - Phần 2

Trang Chủ » Truyện » Truyện hay » Thiên thần nhỏ của tôi
Powered by XtGem
Copyright © 2018 15Giay.Xtgem.Com