Đêm đen, gió rét, không khí ẩm. Trăng bị mây đen che khuất,như đồng lõa với kẻ ác trong cuộc đi trốn. Mary tự hỏi có thể kêu cứu bằng cáchđánh thức dân làng? Cùng lúc ấy, nàng thấy bàn tay người đàn ông trước mặt:
- Đừng nghĩ bậy, Mary! Ở Altarnun này dân chúng vào giường sớm.Cô mà mở miệng, thì chỉ trong nháy mắt cô đã nằm dài bất động dưới cỏ ướt, tuổitrẻ và sắc đẹp tiêu tan... Và khi dân chúng mở mắt ra, họ chỉ biết thương tiếccô, còn tôi, tôi biến mất vào bóng tối. Đừng sợ lạnh, ngựa chạy một lúc sẽ ấm.Vả lại, cô đã quen với những cuộc hành trình khó nhọc rồi mà!
Người đàn ông cưỡi con ngựa xám, ngựa hồng Mary cưỡi bị cộtcương chung vào ngựa ông ta.
Họ tiến ra đồng hoang. Không một đường mòn mà toàn những đámcỏ cao, ẩm ướt, những bụi thạnh thảo khẳng khiu. Đôi lúc, ngựa vấp phải đá rắnhay lún xuống đất mềm cạnh các vũng lầy. Quanh hai bên người, núi đá sừng sữngngăn cách họ với thế giới bên ngoài. Hai con ngựa song song trong lòng thunglũng.
Hy vọng trong lòng cô gái như tàn dần: đồi núi đen ngòm làmnàng cảm thấy nhỏ bé, bất lực, mỗi bước chân ngựa bước tới, nàng càng xa NorthHill và đồng hoang thì thuộc về thế giới kỳ bí đáng sợ nhưng lại quen thuộc vớicon người cạnh nàng. Sự im lặng làm Mary ngạt thở, nàng hỏi lên:
- Ta sẽ đi đâu?
- Không lâu đâu, bờ bể Cornouailess sẽ được canh phòng cẩn mật,nhưng nhờ trời hôm nay thì chưa, chưa đâu. Dọc theo bờ đá từ Boseastle đếnHartland chỉ có lũ chim rừng và hải âu. Mary! Tôi biết cô không muốn nghe tronglúc này đến hai tiếng tàu bè, nhưng chúng ta sẽ dùng thuyền bể để rời xứ...
- Nghĩa là ông đưa tôi ra khỏi nước Anh?
- Còn biết cách nào khác bây giờ? Từ đây, Cha Davery sẽ rờibỏ giáo hội mà trở về đời sống của kẻ... suốt đời lẩn trốn. Nhưng Mary ạ, cô đừnglo : Cô sẽ thấy nhiều cảnh đẹp ở Tây-ban-nha, ở Phi châu, nếu cô muốn, cô sẽ đượcdẫm chân trên cát nóng sa mạc. Cô muốn đi đâu, tôi cũng chiều cô... Ủa! sao côcười? Cô định chế giễu tôi? Hay cô cho là tôi nói dối?
- Không! Tôi cười vì những điều vô lý ông vừa đề nghị. Ôngquên rằng hễ có dịp là tôi tố cáo ông ngay, hay sao?
- Cô quên chứ đâu phải tôi quên; đây không phải là miền namcủa cô: Helford dọc theo bờ sông, làng nọ tiếp nối làng kia. Đây khác hẳn: miềnbắc cũng hoang vu như đồng hoang, cô sẽ không còn thấy khuôn mặt người nàokhác, ngoài khuôn mặt tôi cho đến hải cảng nào mà tôi quyết định dừng ngựa lại.
Mary gặng:
- Như thế, có gì chứng tỏ rằng khi rời Anh quốc, đến Phichâu hay đi đâu nữa, tôi có thể trở thành bạn một kẻ sát nhân như ông?
- Tôi tin là lúc đó cô đã quên...
- Quên cả việc ông giết dì tôi?
- Phải, và cô còn quên nhiều việc khác nữa: đồng hoang mandã, lữ quán Giao Mai, quên cả những giọt nước mắt trên đường Launceston, cả gãcon trai trộm ngựa và nụ hôn đầu của gã đã làm xao xuyến tim cô...
- Ông quá chủ quan...
- Không đâu! Tôi biết rõ các cô, tôi biết rõ giấc mơ của cáccô gái. Rồi cô xem, tôi hơn em Joss, tên trộm ngựa, về điểm này. Cô sẽ thấy. Đừngnhíu mày, đừng tỏ vẻ kinh tởm tôi kẻo rồi đến khi cô hối hận thì quá muộn!Mary!
Mary quay đi để khỏi thấy khuôn mặt người trên ngựa cạnh cô.
Đôi ngựa tiến tới chậm chạp, bóng tối dày đặc quanh họ, thỉnhthoảng ngựa dừng lại bối rối, sợ hãi: mặt đất ẩm ướt, lún sâu hơn. Mary khôngthấy đồi núi nữa, nhưng nàng hiểu rằng quanh đây đầm lầy rất đáng sợ. Nàng liếcnhìn người đàn ông. Ông ta chồm mình tới trước như muốn chọc thủng bóng đêm dàykịt. Môi mím chặt, ông ta cũng hiểu rằng bất trắc, hiểm nguy đang đón đợi mình.
Mary nóng bừng tuy nàng đang lạnh cóng: nàng đã thấy đầm lầygiữa ban ngày; những bụi cỏ nâu lung lay trước gió như mời mọc nhưng trong nháymắt đã chôn trọn một con heo rừng ngu dại tham ăn rồi mặt nước đen ngòm lại hiềnlành, cỏ nâu bên trên lại mời mọc...
Mary biết ngay cả dân sống trong đồng hoang cũng vẫn lạc bước,sa chân...Nàng đâu quên rằng Matt...anh ruột của Jean đã chết đuối trong lầy?Phải! Người đàn ông, bạn đồng hành bất đắc dĩ của nàng thông thuộc đồng hoang,từng đường ngang nẻo tắt, nhưng vẫn không có nghĩa là hắn không lầm lẫn, nhấtlà trong đêm tối mịt như thế này.
Người đàn ông giở mũ ra để dễ thấy hơn, hết quay phải lạiquay sang trái dò đường. Sương bay là là trên mặt đất, sương lượn lờ ngang mìnhngựa đầu người. Sương bám vào tóc, vào áo...Trong giây lát, sương mù làm thànhmột bức màn trắng toát chắn ngang mắt hai người.
Người đàn ông kéo dây cương cho ngựa đứng lại. Hai con vậtrun rẩy hí vang lên.
Ông ta kiên nhẫn đợi, cất tiếng nói với Mary tuy không thấynàng đâu:
- Kiên nhẫn chút nữa, sương ở đồng hoang rất mau tan !
Nhưng cả hai đợi mãi, sương không tan loãng tí nào. Lờ mờsau lưng nàng, Mary quay lại thấy bộ mặt ông ta trắng toát như bộ mặt mạ bằngsương. Giọng ông ta chua chát:
- Chúa của cô không giúp tôi chăng? Nhưng nếu quả thế, Chúacũng không nên quên rằng cô đang bị buộc dính cạnh tôi, cô sẽ cùng số phận vớitôi, kia mà! Dù sao, sương mù quái ác này không tan trước rạng đông, đành chờ vậy!
Mary im lặng. Hy vọng như bừng lên trong tim nàng, nhưng đồngthời, cô gái lại cũng nhớ ra rằng sương mù là kẻ thù của thợ săn cũng như con mồi!
Người đàn ông kéo cương ngựa bất ngờ, giục đi về phía trái,tiến lên chỗ đất cứng hơn, ngựa đạp trên đá. Sương mù vẫn bao phủ xung quanh.
- Đêm nay chúng ta dừng nghỉ lại đây. Tối nay, cô chịu khóngủ trên giường đá vậy. Ngày mai sẽ lên đường. Đây là Roughton.
Ngựa lộc cộc lên đồi, chậm chạp. Một chốc sau, Mary đã ngồitrong hốc đá. Nom nàng tựa một bóng ma trong tấm áo choàng. Cô gái cố thu mìnhlại, đầu gối co dưới cằm, hai tay vòng quanh hai chân mà khí lạnh vẫn thấm vàotận xương cô.
Hai con ngựa nép cạnh nhau bên vách đá tìm hơi ấm của nhau,chừng như chúng cũng thấy sợ hãi nên chốc chốc lại quay đầu nhìn chủ bằng nhữngcon mắt lo âu.
Người đàn ông ngồi cách cô gái cỡ hai thước thỉnh thoảng lạiđưa mắt nhìn nàng như muốn gợi chuyện, nhưng Mary tránh cái nhìn ấy, giữ vẻ lạnhnhạt xa vắng làm ông ta ngượng ngập:
- Cô nên ngủ đi cho khoẻ. Đường còn dài và vất vả lắm đó,Mary!
- Tôi không buồn ngủ...
Mary trả lời vắn tắt. Thật ra, cô gái không dám ngủ, cô luônphải đề phòng. Im lặng, im lặng một cách nặng nề, khó thở đầy đe dọa. Chỉ có tiếnggió rít qua khe đá, tiếng gió tợ như tiếng rền rĩ, ai oán, não nuột của nhữnglinh hồn vất vưởng lang thang không chỗ trú ngụ giữa đêm thâu giá buốt.
Mary kéo mũ áo choàng chụp lên đầu, bịt kín hai tai để khỏinghe tiếng kêu than rởn gáy đó nhưng từ trong hốc đá sau lưng nàng, tiếng hú rềnrĩ vẫn vang lên. Đối diện cô gái, người đàn ông khẽ tằng hắng như toan cất tiếngnhưng giật mình vì tiếng vó ngựa nện trên đá rắn, nên thôi.
Mary quá mệt nhọc nên không chống nổi, thiếp ngủ đi một lúc.Khi nàng hoảng hốt choàng dậy, người đàn ông vẫn chăm chú nhìn nàng, nụ cườikhó hiểu đọng trên môi, cằm gác trên đầu gối.
- Cô không thức nổi đâu, còn lâu mới sáng. Hiện mới nửa đêmthôi. Ngủ đi Mary! Cô ngờ tôi muốn hại cô sao?
- Tôi không ngờ chi cả, nhưng tôi không muốn ngủ, thế thôi.
Mary run rẩy trong khi nói.
- Cô lạnh cóng thế kia. Phía tôi không có luồng gió, đỡ réthơn. Chúng ta cần nương tựa vào nhau, sưởi ấm cho nhau...
- Tôi không cần phải tựa vào bất cứ ai.
- Sở dĩ tôi nói thế là vì tôi biết rõ đêm trường ở đồnghoang. Những giờ lạnh lẽo nhất là những giờ trước rạng đông. Hãy đến tựa vàolưng tôi mà ngủ một giấc cho lại sức! Mary! Vì cô mà tôi vất vả, khốn đốn, đangtừ một linh mục khả kính tuột xuống số phận của kẻ trốn nhủi trốn chui; nhưngtôi không hề oán hận cô, trái lại...
Vó ngựa lại khua lộc cộc làm người đàn ông ngừng một phút,nghe ngóng quanh mình, giọng ông ta như giọng của người bạn tâm sự cùng người bạn:
- Mary! Chớ giữ vẻ lạnh nhạt, khinh miệt tôi. Tôi cũng thuộcdòng dõi khá giả, lương thiện, không khác chi cô. Xã hội bất công, tàn nhẫn đãxua đuổi tôi, dồn tôi vào thế kẹt... Một đứa trẻ mồ côi cha, chỉ còn tình mẹ màrồi tôi chưa đến tuổi vào đời mẹ tôi bị bạo bệnh lại cũng mất đi. Tôi...
Mary chợt nhớ đến mẹ mình vì những lời người đối diện. Nànghỏi không suy nghĩ:
- Mẹ ông mất lúc ông bao nhiêu tuổi?
- Mười chín, phải, tôi mới mười chín tuổi đầu. Cái tuổi cầncó người hướng dẫn, dắt dìu, nâng đỡ...
Mary lạnh lùng:
- Ra những tội ác ông nhúng tay vào, những giọt máu ngườiông làm đổ ra đều do cái chết của mẹ ông? Ông không có lỗi gì hết? Khá lắm! Ôngsẽ có dịp tự bào chữa, biện hộ một ngày kia...chắc cũng không lâu...
Lần thứ nhất, Mary thấy người đàn ông bí mật cúi xuống, đầugục trong hai bàn tay và tiếng thở dài của hắn làm nàng hơi...xao xuyến. NhưngMary tự cười mình: suýt nữa nàng đã bị hắn lừa bịp, đã gần tin hắn. Lúc nhỏ khichưa thay mẹ trong những công việc đồng áng, trang trại, gà vịt, Mary cũng từngcắp sách đến trường, nàng lại cũng có đọc rất nhiều sách do cô giáo nàng chophép, do các bạn con nhà khá giả gửi mua ở tỉnh lớn mang về. Hầu hết các nhân vậthung bạo, độc ác, bất lương trong sách đều viện cớ này, cớ nọ để chạy tội mình,đặc biệt chúng hay dùng xã hội để làm chỗ gánh tội thay. Tại xã hội thế này, tạixã hội thế kia, tại xã hội thế nọ, vân vân... Chúng không có tội gì cả. Thậmchí, có khi chúng làm cho mấy ông toà cũng cảm động, mủi lòng, phân vân, bàncãi khá lâu trước khi đi đến quyết định cuối cùng...
Mary cất tiếng cười khanh khách, tiếng cười của nàng làm chogã đàn ông ngẩng phắt lên:
- Cô chế giễu tôi đó phỏng?
- Không! Tôi không chế giễu ông. Tôi đang nghĩ đến một chuyệnhay hay, và chuyện đó làm tôi bật cười, tuy tình cảnh tôi chả có gì vui cả.
Mở to đôi mắt trong suốt lạnh lẽo như thủy tinh, gã đàn ônghỏi:
- Cô có thể cho tôi biết với không? Mary! Cô bảo không ngủđược, vậy ta nên nói chuyện cho quên trời lạnh, đêm dài... Nào, cô thử kể...
- Tôi đang nghĩ một chuyện ngộ nghĩnh thế này đây: sau khi mẹchết, tôi đến lữ quán Giao Mai, khám phá được âm mưu của các người và tôi...nhậpbọn. Có phải cả ông lẫn Joss Merlyn đều cho là tôi khá thông minh! Đó, tôi sẽdùng cái thông minh trời cho, cái vốn của một đứa con gái nghèo, mồ côi... Tôisẽ làm đủ tội ác, tay lấm đầy máu người vô tội. Nhưng tôi không yên lòng nhưông, cũng không say sưa hốt hoảng kiểu Joss Merlyn. Vì tôi còn tin Chúa. Tôi vẫntìm đến cha Davey - tức là ông, vị linh mục giả - nhưng không phải để tố cáo tộiác mà xưng tội. Cha Davey Francis khả kính sẽ giải tội cho tôi bằng lời lẽ nhưthế này: "Con cứ yên tâm, con không có tội gì cả, lỗi ở mẹ con, sao bà lạichết trong lúc con chưa đến tuổi vào đời? Sao xã hội không bao bọc con trongnhung ấm. Con tiếp tục... Mỗi lần có chi thắc mắc, hãy đến với cha!" . Thếlà tôi bình tâm trở lại, quay về lữ quán, tiếp tục, tiếp tục việc bất lươngcùng với quí ông. Cho đến một hôm, ba cái thòng lọng được mắc lên và trước khichui vào đó, tôi vỡ lẽ ra rằng linh mục khả kính Francis chính là thủ lãnh củatôi...
Mary cười ngặt nghẽo, cười như một người điên, không tự chủ.Thình lình, người đàn ông quát lên:
- Thôi! Cô vừa chứ, tôi hết chịu nổi cô! Cô có câm đi khôngthì bảo? Này tôi nói thật, đừng tưởng tôi mê sắc đẹp cô. Cô là gì? Chỉ là mộtgái quê có chút duyên sắc dễ coi, cô chả phải là thứ lá ngọc cành vàng trongcung điện. Tôi chỉ quí mến cô ở óc mạo hiểm, ở trí thông minh và ở lòng can đảm.Tôi nói cho cô biết, đừng có kiêu hãnh, vênh cái mặt lên, tôi không hay nổinóng. Nhưng tôi mà nổi nóng thì, cô biết chứ: cha phó Francis Davey đã làm tôinổi nóng, Joss Merlyn cũng chọc tức tôi, cô đừng dại dột, xác cô sẽ chỉ có quạbiết thôi!
Mary không phải là thiếu nữ được bọc trong gòn như cô từng tựphụ. Huống chi trong những ngày sống tại lữ quán Giao Mai nàng đã quen đương đầuvới những điều ghê gớm, đáng sợ nhiều lần. Cũng nhiều lần thấy can đảm tinh thần,lòng yêu đời cùng một loạt hao hụt, tiêu tan, có lần nàng muốn chết để khỏi chứngkiến những thử thách trên sức chịu đựng, chạm đến lòng tin tưởng sắt đá về điềuthiện, về lòng nhân mà nàng được giáo dục từ tấm bé. Nhưng từ khi nàng được biếtJean Merlyn đã vào nhà thờ hôm sáng chúa nhật trước khi tố cái kẻ sát nhân, đượcbiết Jean không phải như nàng nghi ngờ, thì nàng bỗng dưng yêu đời trở lại. Yêuđời như khi còn mẹ, như khi nàng đứng tựa vào rào nhìn đàn gà tung tăng trong nắngsớm, hay đàn vịt bì bõm dưới suối trong veo, như khi nào vuốt ve con bê con óngmượt vừa chui ra khỏi lòng mẹ nó...
Vì vậy, nàng không nao núng trước những lời đe dọa của gãđàn ông, tuy nàng biết rằng hắn không chỉ dọa suông, nếu cần, hắn ra tay khôngdo dự. Nàng lại biết hắn cần nàng vì những lẽ gì. Nàng bình tĩnh:
- Đừng dọa tôi vô ích. Tôi không thiết sống. Từ khi mẹ tôichết, tôi sống giữa một bọn man rợ, bất lương. Cuộc sống như vậy có nghĩa lýgì? Tôi cần tìm sự yên tĩnh trong tâm hồn cũng như muốn được nghỉ ngơi thể xác.Vì sao? Vì tôi quá mỏi mệt, tôi kiệt sức rồi. Hãy giết tôi đi! Hỡi nhà tu giả!Tôi cảm ơn ông nhiều lắm!
Giọng nàng đều đặn, lạnh lẽo như sương đêm, giọt rõ ràng từnggiọt một. Người đàn ông tránh nhìn nàng, im lặng giây lâu rồi chậm rãi nói:
- Cô sẽ được toại nguyện vào lúc nào tôi thấy cô vô dụng chotôi, vào lúc nào việc giết cô cần thiết cho tôi. Bây giờ thì chưa, chưa đếnlúc...
Mary nửa thức nửa ngủ rất lâu, rồi đột nhiên nàng choáng tỉnhvì một bàn tay lạnh ngắt bụm miệng nàng. Cô gái toan kêu, toan vùng vẫy nhưngngười đàn ông đã nhanh nhẹn dùng dây nịt trói nghiến hai tay cô gái, bẻ quặtsau lưng. Ông ta hành động một cách bình tĩnh, lạnh lùng, mỗi cử động như đềutính toán kỹ, chính xác; rút từ cái khăn tay, ông ta gấp lại, bịt cứng miệng côgái.
Xong đâu đấy, ông ta đứng lên, dắt nàng ra phía sau mấy khốiđá to lớn, nói:
- Mary! Xin lỗi cô nhé? Vì sự an toàn chung cho cả hai ta.Tôi không ngờ bị vướng vào thứ sương mù quái ác nên mới chậm trễ tại đây. Sự imlặng của cô lúc này rất cần thiết, cô sẽ hiểu vì sao.
Trèo lên đỉnh đồi, ông ta nắm tay Mary kéo lên và chỉ chonàng thấy đám khói trắng bay phía dưới.
Mary chợt hiểu: nàng đã thiếp đi lâu hơn nàng tưởng và tronglúc đó, bóng đêm cũng tan dần. Mây bay là là khắp vòm trời mầu chì. Vầng dươngsắp hiện ra, quét tan bóng tối, bóng tối đồng loã cùng tội ác!
Nhưng sương mù vẫn chưa tan hẳn, bao phủ những phiến đá bêndưới làm thành một lớp màn trắng. Theo hướng ông ta chỉ, Mary vẫn chưa thấy gìrõ rệt ngoài những bụi thạch thảo ướt đẫm sương... Nhưng trong thoáng chốc, cótiếng kêu, tiếng reo hò vọng lại tuy không rõ lắm.
Rồi thì, tiếng reo hò vọng lên mồn một như muốn xé toạc mànsương.
- Cô đã hiểu chưa?
Mary lắc đầu. Người đàn ông cười nụ cười đượm vẻ chua chát,buồn rầu :
- Tôi quên đi mất một điều quan trọng : Ông Bassat có nuôi mộtđàn chó săn. Thật đáng tiếc cho cả hai ta.
Mary kinh hãi thật tình, nàng nhìn từ người đối diện đến haicon ngựa, phân vân lo lắng. Trong hốc đá, hai con vật đáng thương vẫn nép vàonhau, run rẩy.
- Chúng ra phải xua ngựa xuống đồng hoang để đánh lạc hướngđoàn chó săn đi. Chúng trở thành vô ích cho chúng ta, có chúng, chó càng dễ tìmta. Vir-Arjent! Mày lại làm hại chủ lần nữa đây này!
Mary sững sờ nhìn người đàn ông tháo cương hai con ngựa và dắtchúng đến dốc đồi, đoạn cúi xuống, vốc từng nắm đá, ông ta ném liên tục, dữ dộivào hai con ngựa. Hai con vật cắm cổ chạy tràn theo triền dốc, giữa những bụigai và đá rắn. Người đàn ông tiếp tục nhặt đá, ném, ném, ném không ngừng...
Mary nghe tiếng ngựa hí vang lên, phi nhanh xuống dốc, tungđất đá bốn phía và sau cùng mất dạng giữa làn hơi trắng xóa bao quanh.
Nguồn: 15giay. xtgem. com
Tiếng chó sủa càng lúc càng gần, càng hăng. Người đàn ông chạylại bên Mary vừa chạy vừa cởi bỏ chiếc áo dòng và cái mũ, mắc vào một bụi cây.Giọng ông ta lạc đi:
- Nào! Lại đây! Dù cô xem tôi là thù hay bạn chúng ta cùngchung mối nguy hiểm.
Ông vòng tay sau lưng cô gái và cả hai chạy lên dốc giữa nhữngphiến đá, bụi gai. Đá lăn lông lốc, gai cào rách da, nhưng họ không dám dừng lại,dù chỉ dừng trong một giây để thở.
Tiếng chó xa dần, làm người đàn ông phấn khởi. Hình như đànchó đã được cái áo ở bụi cây nên dừng lại, kẻ đào tẩu tin rằng có thể nhờ đó màthoát được màn lưới giăng ra!
Áo quần, tóc tai hai người cùng xác xơ, rách nát, rối bù,hai tay Mary rớm máu. Càng lúc họ càng lên cao, trèo leo, đi, chạy, bò, lê, đủcách...
Đến một lúc Mary ngã quị. Người đàn ông cúi xuống toan đỡ vàkéo nàng lên nhưng Mary kiệt sức quá rồi. Tiếng chó sủa càng gấp làm cho ngườiđàn ông bối rối. Ông ta quyết định rất nhanh: nếu kéo được cô gái theo cùng, côsẽ là tấm bia đỡ đạn cho ông ta, là con tin để đánh đổi tự do... nhưng cũng lạivướng víu khó khăn thêm nhiều lắm. Bỏ Mary lại, đàn chó sẽ xông vào cô gái, ôngta thừa thì giờ tẩu thoát dễ dàng hơn.
- Vĩnh biệt Mary Yellan! Tôi rất tiếc! Khó mà tìm được mộtcô gái như cô!
Ông ta buông cô gái, hai tay bị trói, nàng không chống đỡbám víu vào đâu được, nàng lăn tròn theo triền dốc như viên cuội bị ném từ trênxuống; gai nhọn, đá rắn thi nhau quất đập vào nàng. Mary lăn có năm vòng như thếrồi nàng được một phiến đá giữ lại.
Cô nằm ngửa, thở hổn hển, giương mắt nhìn lên: trên cao, gióthổi mái tóc trắng của người đàn ông bay phất phới, ông ta vẫn bám vào sườn núiđá như con nhái bám vào một gốc cây sù sì to lớn, cố trèo lên. Cô gái quên cảđau, nín thở nhìn người đàn ông chăm chắm khi ông ta bám nhằm vào những phiếnđá phẵng lỳ, trơn tuột...
Hoà lẫn với tiếng chó, có cả tiếng reo hò của nhiều người,tiếng súng lên đạn nghe canh cách. Mary thôi nhìn lên, nàng hồi hộp quá.
Cô quay mặt xuống: đàn chó mầu hung đỏ nổi bật giữa mầu xámxịt của đá. Chúng chạy lăng quăng, kêu ăng ẳng một cách thích thú hí hửng.Chúng vây quanh tấm áo dòng. Nhiều chấm đen tiến lên giữa những bụi thạch thảo;và những tia sáng mặt trời rọi yếu ớt bên trên.
Mary tuyệt vọng: nàng bị trói tay, bịt miệng không thể kêu cứu,không thể chạy được. Đàn chó đang còn chia nhai những mảnh rách của tấm áodòng, có con tinh khôn giằng một mảng, tong tả chạy xuống - chắc để đưa cho chủ?- nhưng khi chúng chán trò đó, chúng sẽ tìm nàng không mấy khó khăn. Nàng sẽ rasao? Mary nhắm mắt lại không dám nghĩ thêm, mồ hôi tuôn như tắm.
Đoàn người vừa hò hét vừa chỉ trỏ lên mấy phiến đá trên cao.Chỉ chốc lát sương mù và mây tan biến, trời xanh lồ lộ. Cách Mary hơn 50 thước,một người quì gối thân hình lẫn trong đám cỏ dại, đưa súng lên nhắm bắn. Viên đạnrít lên một tiếng, xé toang không khí. Khi anh ta nhỏm dậy, Mary thấy anh rõquá: chính Jean, nhưng nàng không thể nào cất tiếng kêu anh, mà anh thì khôngthấy Mary! Lần này, Jean hăm hở nạp đạn,nhắm bắn tiếp, viên đạn véo sát taiMary làm cô càng hoảng.
Đàn chó săn len lỏi giữa đám thạch thảo, một con nhảy lênphiến đá sau lưng cô gái, đưa mõm đánh hơi. Nếu Jean quay lại thì tất chàng thấyMary, nhưng anh đang theo dõi cái bóng dáng cao lớn trên kia: mái tóc tung bay,người đàn ông hung thần của nhiều tội ác vẫn lẩn lút trong bóng tối đã cùng đường.Hắn đứng sững, thật cao, thật rõ, nổi bật trên phiến đá to tựa như một bàn thờ,xung quanh không có gì cho hắn trốn nấp không có gì che chở hắn nữa, sau lưnglà vực thẳm, hắn đứng như pho tượng, không có Mary làm bia chắn, không khí giớiđể phản công...
Jean bắn tiếp hai phát, một viên đạn ghim vào một chỗ nàotrong người hắn, nhưng hắn vẫn đứng vững, hai tay giơ tới trước như con chimgiang rộng cánh toan bay rồi đột ngột hắn ngã ra sau, rơi tòm xuống vực, lặng lẽchóng vánh im lìm như chiếc lá rơi, không tiếng kêu, không tiếng động.
Mary rú lên, nhắm mắt lại vì hình ảnh kinh hoàng trước mắt,nhưng tiếng kêu nàng bị cái khăn bịt miệng ngăn lại không tới tai Jean. Đàn chósăn cũng không khám phá ra nàng, vì chúng cũng theo dõi cái bóng cao lớn, cáiđích của họng súng chàng trai trẻ.
Mary ngất đi sau khi tiếng kêu không thoát ra khỏi cổ họngnàng.
Nguồn: 15giay. xtgem. com
Trời tháng Giêng thật đẹp. Một lớp tuyết mỏng phủ lên mặt đường,mặt nước và trên bùn nom loang loáng như một tấm gương vĩ đại lấp lánh phản chiếuánh mặt trời. Trời xanh mầu ngọc bích, không một gợn mây vương, trong vắt.
Mặt đất khô cứng, những cọng cỏ ngắn, dòn, rào rạo dưới mỗibước chân như khi người ta dẫm trên lối đi trải sỏi vụn.
Quanh vùng, trên những lối đi nhỏ hẹp cạnh hàng giậu thưa, vầngdương chiếu sáng và sưởi ấm bầu không khí trong lành, tinh khiết. Hương vị đầuxuân thoang thoảng, e ấp và đầy quyến rũ.
Song ở đây, trên đồng hoang, cái lạnh cắt da của những ngàyđông tàn vẫn còn nấn ná, chưa lui. Mary đang đi dạo trên đồng hoang, một mình.Gió buốt lướt trên mặt cô gái. Nàng băn khoăn tự hỏi: sao ngọn Kilmar bây giờkhông còn giữ vẻ rùng rợn, đầy đe dọa như trước? Sao nó chỉ còn là ngọn đồi cónhững chóp nhọn chia chỉa vươn lên nom hùng vĩ, âm u dưới vòm trời? Phải chăngsự sợ hãi trước kia đã làm cô mù quáng, không nhận ra vẻ đẹp thiên nhiên củanó? Hay vì kinh tởm lữ quán Giao Mai và Joss Merlyn mà Mary ghét lây cả cảnh vậtxung quanh?
Kìa! Đồng hoang vẫn biệt lập, lạnh lùng, các ngọn đồi vẫnkhông hiếu khách, song dưới mắt cô gái bây giờ chúng chả còn chút gì bí ẩn, ghêngười. Thật vậy, Mary nhìn cảnh vật bằng đôi mắt bình thản, dửng dưng.
Bây giờ đây, Mary Yellan hoàn toàn được tự do, nàng có thểđi đâu tùy thích. Ý tưởng của cô gái hướng về Helford yêu dấu và những đồng bằngxanh ngắt hiền hoà của miền Nam. Cô tha thiết muốn gặp lại làng mạc cùng nhữngkhuôn mặt quen thuộc. A! Helford! Nơi đó dòng sông rộng trong suốt chảy qua;Mary nhớ từng tiếng động, phân biệt từng mùi thơm, nàng nhớ từng con suối nhỏchảy ngoằn ngoèo gây nên tiếng róc rách êm tai như khúc nhạc thiên nhiên đầyquyến rũ!
Nơi đó là nơi người ta có thể yên lòng nghỉ ngơi sau nhữnggiờ nhọc nhằn ở ngoài đồng, trong trại.
Mùa hạ, lá rì rào, một thứ âm nhạc êm dịu khác thứ nhạc suốixôn xao. Rồi đông về, dù khẳng khiu cành, trơ trụi lá, ngàn cây vẫn là nơi trú ẩncho khách lỡ bộ đường.
Chao! Mary ao ước được nhìn lại bầy chim bay lượn trên cáctàng cây, nhìn các cánh bướm nhởn nhơ trên nội cỏ, khát khao nghe tiếng hót véovon của một loài chim lạ, như tiếng mời gọi ân cần, như lời khuyến khích cô gáiquê cô thêm phấn khởi, tay vuốt mồ hôi, quên cả nỗi nhọc nhằn.
Mary thèm nghe tiếng động quen thuộc của nông trại biết làchừng nào; tiếng gà mái cục tác khi làm tổ, tiếng gà trống gáy ó o, tiếng đànngỗng kíu kít, bầy vịt bì bõm lội dưới ao và kêu quàng quạc.
Nàng nôn nao cảm thấy như hơi thở ấm của bầy cò quyện lẫntrong không gian làm ấm cả tay nàng và tiếng bước chân nặng nề của chúng nhưđánh nhịp với con tim cô gái. Nàng nhớ cả mùi phân nồng ngây ngây ở trong chuồng.
Và cái tiếng gầu va chạm vào thành giếng sao cũng làm nàngxúc động, bồi hồi? Mary nghĩ rằng mình sẽ sung sướng vô vàn khi được đứng tựavào hàng rào mỗi chiều, ngắm con đường làng nhỏ bé, chào một người bạn đi qua,nhất là nhìn làn khói xanh thoát lên từ ống khói của các ngôi nhà lân cận.
Việc đồng áng là sở thích của Mary: mỗi sáng, nàng dậy sớmxách nước xong, cô gái duyệt qua một vòng giữa đám gia súc thân yêu như vị tướnglãnh duyệt xét đám binh sĩ dưới quyền; mà tiếng kêu đòi của chúng với nàng khácnào khúc nhạc binh hùng dũng!
Rồi đây, Mary sẽ ra công lao tác, sự cố gắng đem lại chonàng niềm vui, và cũng là kẻ thù của sự buồn phiền. Mary tin là mình sẽ tìm thấybình yên cho tâm hồn như mọi người trong giòng họ Yellan chất phác của mình.Nàng thuộc về ĐẤT như họ, dính liền vào ĐẤT như họ vậy; một ngày kia, ĐẤT lại sẽcũng ấp ủ nàng như họ. Phải! Mary đã sinh ra tại đây và nàng cũng sẽ chết tạiđây.
Sự cô độc không đáng ngại đối với cô gái quê. Một nông dânkhông biết đến cô độc; cả ngày làm việc, đêm tối thẳng giấc trên giường. Nànghá không định sống như thế từ lâu đó ư? Nàng tin mình đã chọn đúng con đường tốtvà sẽ không do dự. Nàng sẽ từ biệt gia đình ông Bassat nay mai...
Nàng không hợp với nếp sống trưởng giả của họ, tuy là họ tốt,quá tốt đối với nàng. Họ biết nàng không còn ai là thân nhân nên hết sức nài nỉnàng ở lại với gia đình họ.
Bà vợ viện cớ ông toà hay vắng nhà, mình cần một người bạnnhỏ và một người săn sóc các con bà. Ông chồng thì nói:
- Mary! Cô trẻ quá và đẹp quá, không thể sống một mình. Cô cứxem đây là gia đình cô. Vợ tôi và tôi đều quí mến cô. Thiếu gì việc cho cô làm?Cắt hoa trang hoàng nhà cửa này, viết thư hộ nhà tôi này, la rầy lũ trẻ này...Tôi biết cô không thích ở không, cô sẽ không ở không đâu.
Các con của ông bà cũng quí mến Mary. Henry tỏ ý muốn tặngchi Mary Yellan con ngựa quí của nó, con ngựa mà các em nó, nó cũng không cho đụngđến.
Trong phòng khác, bà Bassat không ngớt dỗ dành Mary:
- Một ngày kia, cô sẽ lập gia đình. Không ai có thể sống côđộc suốt đời, nhưng trở về Helford cô sẽ buồn... và nếu lấy chồng, tôi tiếc chocô...
- Thưa bà, tiếc về cái gì, kia ạ?
- Cô sẽ làm vợ một nông dân... Tôi không bao giờ muốn thấycô vất vả lao tác, Mary! Tôi không nói quá đâu: cô xứng được sung sướng, nhànnhã...
Mary đỏ mặt, nhưng đôi mắt cô xa vời làm người đàn bà tế nhịngừng lại, kêu lên:
- Mary! Cô nhớ Helford đến thế kia ư?
Cô gái gật đầu, không nói nhưng nét mặt cô như nói rất nhiều.Bà Bassat hỏi :
- Thế sao, sau khi mẹ chết cô không ở yên tại Helford mà dấnthân đến chỗ miệng hùm, nọc rắn như thế, hở Mary?
- Thưa bà - Mary cố dấu vẻ bực bội - chỉ vì tôi phải theo ýmuốn của mẹ tôi: đến ở với dì, Mẹ tôi bảo con gái không thể ở một mình...
Bà Bassat chộp lấy cơ hội tốt:
- Đó! Cô thấy chưa? Cô ở lại với chúng tôi là phải, chắc làý kiến tôi không trái với mẹ cô. Cô nghĩ kỹ đi!
Một lần nữa Mary cố gượng cười tỏ lời cảm ơn ông bà nhưng vẫnkhông nhận lời ở lại. Hai người không hiểu được lòng hoài hương của cô gái quê,họ cho là vì quá xáo động tinh thần trong những ngày qua nên cô gái thẫn thờ,buồn bã.
Họ cố giúp nàng khuây khỏa, nhưng mọi cố gắng của họ đều vôích, nếu không muốn nói là làm cô gái khổ sở bực bội, khó thở hơn.
Nhà ông bà Bassat luôn luôn có tiệc tùng, hội họp, khách khứathường xuyên. Hai ông bà muốn Mary có mặt trong những buổi tiệc, cuộc họp đó. Họgiới thiệu nàng với thực khách - đám thực khách nhà giàu, thuộc thành phần trưởnggiả như họ - với bạn bè, với những tiểu thư, công tử, với những bà mệnh phụ rỗiviệc, dông dài, giết thì giờ trong các buổi tiếp tân hay ngoài phố.
Ông bà Bassat nói đến Mary, đến những hành động nàng như nóiđến một thần tượng, coi nàng như bậc nữ anh hùng, làm cho có kẻ yếu tim phải tựara sau ghế dựa mà thở dốc! Có người ỷ vào địa vị và tuổi tác của họ, họ gọiMary ra trước mặt, nhìn nàng chăm chăm từ gót đến đầu... Bọn thanh niên nam nữthì khá hơn, họ không bày tỏ lộ liễu sự ngạc nhiên về cô gái quê, nhưng họ xì xầmbàn tán ngay sau lưng nàng, hay trong một góc xa xa...
Mary, vì để tỏ lòng kính trọng ân nhân nên không lộ vẻ bấtmãn ra mặt, song cô gái hết sức khổ tâm. Nàng không thuộc vào tầng lớp xã hộinày, không thuộc vào giai cấp này. Cuộc sống nhàn nhã không thích hợp với nàng.Mary chỉ yên ổn, thanh thản trong lòng khi được hít thở bầu không khí của trangtrại, nhìn thấy dòng sông, dòng suối ở Helford yêu dấu. Tay nàng quen lao tác mấtrồi. Hơi hướm của đất đai, của hoa mầu, của phân phóng đem lại nàng tin yêu,vui vẻ. Tiếng động của chim chóc, của gia súc làm nàng phấn khởi hơn là điệu nhạcnhàm tai ở dưới mái nhà này. Cái gì cũng xa lạ, như quá khổ, cũng không hợp vớikích thước tinh thần của Mary!
Trong nhà của vợ chồng ông toà, Mary chỉ tìm thấy chút hoà hợp,chút an ủi nơi bác Richards quê mùa chân thật. Bác có cái gì gần gũi hợp vớiMary. Richards ưa đùa, hay khôi hài làm cô gái quên đi đôi phần phiền muộn. Báccó những nhận xét rất tinh tế, một đôi khi; chẳng hạn có lần bác bảo Mary:
- Này, cô trông cái nhà cô Helen kia, tôi cam đoan là nếu côta không tô môi, vẽ mắt cô ta còn xấu hơn con ma lem. Cô ấy thua cô xa, cô thấykhông?
Mary cười, gặng:
- Thua tôi? Về cái gì?
Richards xua xua hai tay:
- Về tất cả: sắc đẹp, lòng can đảm, sự thông minh, tháovát... Mà này (bác thấp giọng) dù cho cô ta có vẽ vời trang điểm đến mức nào côta vẫn xấu, không thể so bì được với cô.
Mary bật cười:
- Thôi! Bác đùng có tôn tôi lên ngai hoàng hậu, tôi sợ phảingồi trên đó mà chịu chuyện quần thần...
Cả hai cùng cười to, vui vẻ. Rồi thình lình, Richards lậpnghiêm:
- Mary! Altarnun đang khuyết một chân linh mục phó, cô cònchần chờ chi nữa, hãy ứng cử đi! Tôi cá là cô sẽ đắc cử, cô sẽ khá hơn linh mụccũ, vị linh mục giả, người đã làm cô...
Chợt, Richards ngưng bặt vì thấy Mary cau mặt, thở dài. Bácta áy náy:
- Mary! Xin lỗi cô nhé! Tôi vô tâm vô tứ, tôi không cố ý...
- Không! Bác đừng quan tâm... tôi chả buồn đâu. Tôi cảm ơnbác nhiều lắm đó, nếu bác không đến kịp...
Tuy miệng nói thế, Mary không khỏi rùng mình. Theo lời bàBassat kể lại lúc nàng tỉnh dậy trên giường thì đàn chó xúm đến toan vồ xé cô nếuRichards không đến kịp, cứu cô. Bác mở trói cho cô, tháo khăn bịt miệng, lay gọimãi mà Mary vẫn mê man. Ông Bassat cũng có mặt tại đó, ông tức tốc cho lệnh vựcMary về và mời bác sĩ đến ngay.
Mặt xanh nhợt, hơi thở dồn dập, bà Bassat nhắc đến bệnh trạngMary trong những ngày nàng nằm liệt bằng giọng xót thương và sợ hãi. Mary cũnghiểu, tuy nàng không bị thương nặng nhưng khắp người nàng sây sát vì đá nhọn vàgai cào. Mary ê ẩm, nhức nhối còn hơn cái đêm bị bọn Joss trói, lôi ra bờ biển.
Nàng được nghe ngoài bà Bassat còn nhiều người kể lại cuộcbao vây, săn đuổi theo người đàn ông đầu não, người gây ra nhiều chuyện kinh độngcả nước Anh vì những vụ đắm tàu tàn nhẫn. Chỉ mình Richards là lúng túng, khôngbao giờ muốn nhắc đến công mình đã cứu Mary.
- À! Cô cứ nói, nếu lúc đó tôi không tới kịp thì cũng có ngườikhác: Jean Merlyn, ông toà, Jimmy những 50 mạng đi theo chứ bộ mình tôi sao?
Mary giật mình, nghe tim đập rộn trong lồng ngực: nhiều ngàyqua, không một ai nhắc đến tên Jean. Mà nàng thì rất nóng muốn biết tin anhnhưng vẫn giữ ý không dám hỏi. Mary chả biết mở lời ra sao cả. Người ta sẽ nghĩsao về nàng? Sao nàng lại quan tâm đến Jean Merlyn em trai Joss, tên trộm ngựacủa chính ông toà?
Mary chăm chú lắng nghe Richards nói chuyện. Nàng chỉ mongbác ta nói thêm về Jean Merlyn, nhưng lần nào, bác thao thao về điều khác:
- Mary Yellan! Tôi cá với cô (ấy, bác ta ưa dùng tiếng cácũng như các người trưởng giả nói đến hai tiếng cam đoan) bây giờ không còn mộttên buôn lậu, cướp biển nào lảng vảng ngang lữ quán Giao Mai nữa. Tin tôi đi! Rồiđây, tôi sẽ đem gia nhân đến, quét sạch mạng nhện, lau chùi bụi bặm, sửa sang lữquán cho thật khang trang sạch sẽ. Tôi sẽ trang hoàng lữ quán không thua chikhách sạn Hoàng Gia. Tôi sẽ thuê những tên bồi bàn lương thiện, ngoan ngoãn, cảngười chúng không hề bay mùi rượu... như cô vậy đó. Chúng mang những tạp-dề trắngtinh, trước ngực có thêu hàng chữ đỏ chóe: "Chào mừng quí khách" đểcô lác mắt... Và trước quán, cũng có tấm bảng "Chào Mừng Quí Khách" ynhư thế!
Mary vui vẻ:
- Bác không làm việc cho ông toà nữa, hử?
- Tôi ra riêng mà, tôi già rồi, cô thấy không? Phải tự mìnhlàm chủ đời mình chứ! Đó! Tôi đổi tên lữ quán là khách sạn "An Lạc".Tên đó hay không? Có nghĩa là vô đó thì thâm tâm an lạc, khỏi phải thắc mắc đắnđo gì tất. Có điều...phải chi tiền hơi đăn đắt một chút, vì sao, cô biết không?
- Làm sao tôi biết nổi?
- Trời ơi! Vì quanh đó đâu có lữ quán nào? Mà tôi đã điềukhiển lữ quán thì phải biết, không ai tận tâm, tận lực bằng tôi. Giường êm, nệmấm, đèn sáng, thực phẩm ngon… Cô tin tôi không? Cứ trông tôi săn sóc ngựa củaông chủ là biết... con nào cũng bóng nhoáng như có tẩm dầu...
Mary quên cả cảnh ngộ mình, cười ngặt nghẽo. Richards nói tiếp:
- Sẽ chả có một mống lưu manh nào dám thập thò, chõ mũi vàocổng lữ quán của tôi chứ đừng nói đến chuyện dám đặt chân vào quầy rượu...
- Ủa, bác bảo bọn bồi bàn của bác không có mùi rượu trongmình mà?
- Ậy, chúng không có mùi rượu đâu có nghĩa là lữ quán củatôi không bán rượu? Lữ khách mà không uống rượu sao được? Đàn ông không có rượukhác gì quốc kỳ treo chỗ không có gió? Còn ra cái thể thống chi? Mary! Về điểmnày, cô kém lắm, kém lắm!
- Thì đã hẳn, tôi có chối cãi chi đâu...
- Ngày khai trương khách sạn, tôi sẽ mời đông, rất đông quankhách. Mà khách danh dự, đố cô, cô biết ai không?
- Ông bà Bassat chớ ai. Tôi biết...
- Sai nữa nhé! Cô, cô là vị khách danh dự của Khách sạn An Lạcđó, đừng tưởng chuyện lơ mơ...
- Rồi sao nữa?
- Sau đó, tôi sẽ cho gia nhân đưa cô về thẳng Helford như ýmuốn. Đúng ra, tôi lưu cô lại làm việc với tôi, nhưng tôi biết không khí của mộtlữ quán không hợp với cô. Đúng không nào?
- Đúng! Bác nói gì mà chả đúng...
- Tôi đi dép vào tim cô ấy chứ! Về đó, cô cứ yên chí mà loviệc chăn nuôi, trang trại. Khỏi lo mang đi bán ở đâu hết. Gà, vịt, trứng, raucủa cô sẽ dành cung cấp cho lữ quán An Lạc... Tôi không mua rẻ, bắt chẹt côđâu. Bằng lòng không nào? Ký giao kèo ngay từ bây giờ, kẻo muộn!
- Ký, ký cả hai tay!