Vượt qua Bích sơn đi vào miền trung nước Trần.
Chúng tôi từ bỏ ý định đi qua nước Khương, quyết định từ phía đông nước Trần vòng qua nước Triệu đến nước Trịnh để đánh lạc hướng Mộ Nghi và toán hộ vệ áo đen, cuối cùng thành công.
Suốt dọc đường bôn ba như vậy vốn rất mệt mỏi, nhưng do đi cùng Mộ Ngôn tôi chẳng thấy mệt chút nào. Trong thâm tâm tôi còn mong hành trình dài hơn chút nữa, nhưng không có Tiểu Hoàng vướng chân, nguyện vọng đó không dễ thực hiện, tôi cũng cố tình dềnh dàng nhưng vẫn nhanh chóng đến biên giới hai nước Trịnh, Triệu.
Trăng treo giữa trời tỏa sắc vàng óng ánh, chúng tôi tìm một lữ quán, ai về phòng nấy ngủ. Tôi nằm trên giường vừa tính lộ trình đến thành Tứ Phương nước Trịnh, vừa âm thầm nhớ Tiểu Hoàng, trong lòng hơi oán thán, tại sao họa hoằn mới có lần cần đến nó thì nó lại không có mặt, đúng là một con hổ đáng ghét.
Sáng sớm hôm sau, rửa mặt súc miệng xong xuôi, xuống lầu ăn sáng đã thấy Mộ Ngôn đợi ở phòng lớn lữ quán. Chàng đã thay áo chùng gấm màu lam óng ánh, trong ánh sáng buổi sớm trong như ngọc bích, toàn thân chàng như phủ màn khói lam mờ. Tôi dừng chân thầm nghĩ, trên đời có lẽ không ai hợp với màu lam hơn chàng, ai dám mặc màu lam trước mặt chàng là tự biến mình thành kệch cỡm.
Lại nghĩ, lần sau gặp Quân Vỹ nhất định phải khuyên anh ta nên kiên trì màu trắng hiệp sỹ, không nên thấy màu lam không dễ bắt bụi mà chuyển sang mặc màu lam. Ngắm nhìn lam y trên người Mộ Ngôn, lại nhìn lam y trên người Quân Vỹ, e sẽ thấy ngay sự khác biệt.
Nghĩ xong đi tiếp xuống lầu, nhân tiện chỉnh lại cái váy, ngẩng đầu nhìn thấy Mộ Ngôn vốn đang nghiêng đầu nhìn ra cửa sổ, không biết từ lúc nào đã chuyển sang nhìn tôi, khi ánh mắt gặp nhau, chàng mỉm cười với tôi, hậu quả trực tiếp là tôi ngã lăn xuống cầu thang.
Cho dù Mộ Ngôn thân thủ phi phàm, lần này cũng không giải cứu thành công, bởi vì không phải là khoảng cách từ tầng bảy xuống tầng một, chỉ là từ bậc cầu thang thứ bảy xuống mặt đất, khoảng cách của tôi với mặt đất quá gần, trong khi khoảng cách với chàng lại quá xa, ấy là chưa nói giữa đường còn có những vật cản như bàn ghế.
Điều đáng buồn là trong khoảnh khắc tiếp đất nhanh như tia chớp, đầu tôi đang nghĩ liệu cái váy có bị lấm bẩn, nhưng trong họa có phúc, trong đầu lóe lên ý nghĩ, cú ngã này hóa ra lại tốt, tôi sẽ có lý do giả bệnh, nấn ná ở lại thị trấn nhỏ vùng biên này là có thể, là có thể ở bên Mộ Ngôn lâu hơn nữa.
Chỉ bực từ trước không nghĩ ra biện pháp tự lực cánh sinh như vậy, một lòng gửi gắm hy vọng vào Tiểu Hoàng cách xa nghìn vạn dặm không biết giờ đang làm gì. Nhưng giả bộ đau đớn cũng không đơn giản, bởi vì bây giờ tôi đã không còn cảm giác đau đớn thể xác nữa, chỉ cố nhớ lại cảm giác ngày xưa, đang nghĩ như vậy thì bị Mộ Ngôn nâng dậy: “Đi cầu thang cũng ngã, cô bao nhiêu tuổi rồi?”.
Tôi giả bộ xuýt xoa rên rỉ, tỏ ra mình rất đau.
Chàng cau mày điều chỉnh tư thế ôm tôi: “Đau ở đâu?”.
Tôi khổ não nhìn chàng: “Chỗ nào cũng đau”.
Chàng dừng lại: “Vậy phải đến y quán gặp đại phu”.
Tôi hốt hoảng, thầm nghĩ trò đùa này hơi quá rồi, vội vã vùng khỏi lòng chàng, cười cười: “Chẳng đau ở đâu hết, không đi y quán, tôi đùa huynh đấy”.
Chàng nhìn tôi không chớp mắt.
Tôi lau mồ hôi trên trán, vẫn cười cười: “Đến y quán thì to chuyện quá, huynh xem, tôi rất khỏe, đùa huynh tí thôi, hồi nhỏ tôi ngã liên tục, quen rồi, chẳng đau tẹo nào”.
Chàng cau mày: “Thật không?”.
Tôi gật lia lịa: “Thật”.
Chàng vẫn cau mày, “Lúc nhỏ là thời kỳ cơ thể phát triển, nếu bị trật xương sau này sẽ rất phiền phức”.
Tôi trả lời: “Tôi mười bảy rồi”.
Chàng mỉm cười bất lực, lát sau đã chuyển chủ đề: “Không sao thì tốt, đi ăn sáng thôi”. Mới bước hai bước lại hỏi: “A Phất, bữa sáng cô muốn ăn gì?”.
Cuối cùng Mộ Ngôn không đưa tôi đến y quán khám bệnh, nhưng tôi vẫn phấp phỏng, mặc dù tỏ ra hùng hổ mạnh mẽ, nhưng lúc bước đi quả thật cũng hơi tập tễnh, có điều nếu không tỏ ra hùng hổ mạnh mẽ sẽ bị đưa đến y quán, sau đó bị phát hiện là một người chết, rồi bị đưa đến một cơ quan nghiên cứu những sinh vật kỳ lạ thì phiền phức to.
Có lẽ tôi nhảy nhót quá mạnh, cứ như hồi quang phản chiếu ấy, Mộ Ngôn càng cho là tôi cần nghỉ ngơi, quyết định lưu lại một đêm ở thị trấn vùng biên này.
Thị trấn rất sầm uất, bán đủ thứ, có đồ chơi hình thiếu nữ bằng lông vũ, kết tóc kiểu như ý, có cả một chiếc khăn quàng nghe nói là của một người đàn ông phong lưu rất điển trai nào đó qua đời đã lâu, còn có cả bạch trùng tử phơi khô, đặc sản của nước Triệu, nghe nói đem pha nước uống có thể chữa được bệnh tương tư.
Tôi rất hứng thú với bạch trùng tử đó, thầm nghĩ nếu đúng có công hiệu như vậy, có thể mua một ít nghiền nhỏ cho vào thức ăn của Mộ Ngôn, để chàng quên Tử Yên cô nương, để làm lại từ đầu.
Nhưng hỏi thăm tiểu nhị, phát hiện cái đó chỉ có thể pha nước uống, không thể đem một con bạch trùng tử đó pha nước, đổ vào bát cơm của Mộ Ngôn và nói với chàng: “Nào, cho huynh ăn món này, huynh xem, hình như trùng tử này… thực ra nó đúng là trùng tử, nhưng không phải là trùng tử thường…”.
Có lẽ tôi còn chưa nói hết, chàng đã đổ sạch cơm, như vậy e quá lãng phí.
Người biên giới rất giỏi nấu rượu, bữa trưa dùng rượu hoa mai pha tuyết, vẫn là Mộ Ngôn trả tiền, sau đó được chàng dẫn đi nghe kể chuyện ở một trà quán rất trang nhã gần khu chợ. Chúng tôi không đi dạo phố nữa.
Tôi còn nhớ Quân Vỹ có một quan điểm, anh ta cho là, đàn ông hầu hết đều không thích đưa các cô gái đi chơi, bởi vì nếu cô gái thích thứ gì nhất định đàn ông phải trả tiền, đàn ông chẳng qua chỉ là cái túi tiền mà thôi, còn giả sử cô gái không thích gì… điều này không bao giờ xảy ra, quả thực không bao giờ xảy ra. Đương nhiên quan điểm hẹp hòi đó không thể áp dụng đối với tôi và Mộ Ngôn, chúng tôi đến trà quán nghe kể chuyện chỉ là do lúc đó bên ngoài đang là nắng tháng sáu, bỏng rát đầu.
Trong quán trà không còn chỗ trống, đành phải ngồi ké với một người khách ở chân cầu thang, Mộ Ngôn rút trong ống tay áo một cái quạt gấp, xòe ra đủ mười hai nan, quạt phe phảy, hơi gió mát thoảng qua mặt. Lão tiên sinh kể chuyện ngồi ngay ngắn đang kể đến một trường đoạn rất thê lương: “Mười lăm tháng năm là một đêm trăng, nhị công tử Tô Tạ nghe nội giám truyền mật báo, nói: ‘Trần hầu vương bệnh trọng đã lâu, hiện đã trút hơi thở cuối cùng, lúc tạ thế chỉ có tể tướng Doãn Từ phục hầu trước long sàng, nửa khắc trước, Doãn Từ đã sai tâm phúc đi đón thế tử Tô Dự đang ở cách xa tám trăm dặm về cung kế thừa vương vị, nhị công tử nếu muốn khởi sự, đêm nay là thời cơ tốt nhất, nếu để thế tử trở về, cục diện khó bề vãn hồi’. Tô Tạ bao năm khổ công chính là chờ đợi ngày này, phụ hoàng đã cưỡi hạc tây quy, huynh trưởng kế vị đang bị trọng thương, lang thang cách cả gần ngàn dặm chưa về, thời cơ thuận lợi hiếm có. Vậy là, đêm đó Tô Tạ khởi sự bức cung, thế mạnh như chẻ tre, chém giết, xông thẳng vào vương cung, vệ úy Quang Lộc Huân trở giáo đầu hàng, Hạo thành bị đốt, lửa ngùn ngụt sáng rực suốt bảy chục dặm, cả vương đô mù mịt mùi khói lẫn mùi máu tanh. Trong vụ chính biến ở vương cung, do thế tử kế vị vắng mặt, ai cũng tưởng đại cục đã định, người kế vị Trần hầu vương đương nhiên là nhị công tử Tô Tạ. Nhưng sự đời thay đổi khó lường, khi Tô Tạ còn chưa kịp tra thanh bảo kiếm dính máu vào bao, cánh cổng vương cung đóng chặt đột nhiên từ từ mở ra…”.
Tôi nói: “Cánh cổng đó nhất định là nhiều năm không bảo dưỡng”. Vừa dứt lời, hoảng hốt nhận ra lão tiên sinh đã rất mệt mỏi đang uống nước lấy lại sức, trong khi mọi người xung quanh vẫn ngồi im phăng phắc, đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng của cuộc binh biến trong cung, cả lầu hai trà quán im lặng rất lâu, lời nói của tôi nghe rõ mồn một.
Mộ Ngôn phe phẩy quạt, trong mắt hơi cười cười, nhưng không nói gì. Tôi lè lưỡi, cúi mặt xuống bàn, chấp nhận những ánh mắt bất bình của mọi người.
Bên ngoài, nắng vẫn gay gắt, lá liễu mỏng manh bị nắng đốt khô vàng, cong queo, tiếng ve trong tán lá dày khàn đặc như kiệt sức. Lão tiên sinh uống nước xong, tiếp tục kể: “Nghe đồn, Trần thế tử Tô Dự có một đội quân riêng gồm ba trăm thiết vệ, mỗi người là một thanh lợi kiếm vô cùng lợi hại, trở thành đội kỵ binh dũng mãnh không gì ngăn được. Trước đó, chuyện về đội quân bí mật của thế tử Tô Dự đa phần chỉ là đồn đại, nhưng chính lúc nhị công tử Tô Tạ tạo biến, đại cục sắp ổn định, từ phía sau cổng cung mở rộng, ba trăm thiết vệ cưỡi ngựa vó bọc sắt lần đầu xuất hiện. Từ dưới vó sắt của đội kỵ binh quét ra một đường máu thảm đạm, từ cổng chính đồ sộ màu nhạt của vương cung, một con hắc mã chân đạp tuyết thong thả đi vào, thế tử Tô Dự vốn tưởng đang ở cách vạn dặm lại đường hoàng cưỡi trên lưng chiến mã, trong tay cầm thủ cấp đẫm máu của trưởng cấm vệ quân Hình Vô Giai. Tình thế lập tức xoay chuyển, mấy phó cấm vệ quân phần lớn là do Tô Dự bí mật tiến cử giờ đã đứng về phía Tô Dự, Tô Tạ dù có là hổ mọc cánh thì lúc này cũng không thể khống chế cục diện”.
Tôi cảm thấy mình sắp ngủ gật đến nơi, tiếng kể chuyện như tiếng ru ngủ bên tai, tôi gắng chống đầu khẽ nói: “Câu chuyện này dài ghê”.
Mộ Ngôn vừa uống trà vừa hỏi: “Cô đã nghe đoạn kết chưa? Kết cục rất đơn giản, Trần hầu vương thực ra không chết, chỉ hôn mê một thời gian, khi tỉnh dậy thấy đứa con bất hiếu nhân lúc mình bệnh nặng làm phản, lập tức ban cho cái chết. Nhị công tử Tô Tạ bị xử tử chưa được mấy ngày, nước Đường, láng giềng của Trần bị nước Tấn xâm lấn, bèn cầu viện Trần. Trần hầu vương vừa ốm dậy, lại phiền não vì vụ binh biến của nhị công tử, hơn nữa thâm tâm cho rằng, trong cuộc chiến Đường – Tấn, tốt nhất Trần nên đứng ngoài cuộc, vì vậy không muốn xuất binh trợ Đường. Thế tử Tô Dự lại dâng biểu xin dẫn binh viện Đường, bàn luận mấy ngày, cuối cùng Trần – Đường liên thủ đánh bại Tấn”. Nói xong ngước nhìn tôi, “Những chuyện đánh nhau liên miên như vậy, cô còn nhỏ chắc là không muốn nghe?”.
Tôi nhìn chàng suýt khóc: “Tôi chỉ cảm thấy câu chuyện hơi dài, đâu phải tôi không muốn nghe, tại sao huynh lại coi thường tôi thế, lại còn coi thường lộ liễu như vậy, tôi hận huynh muốn chết!!!”.
Mộ Ngôn: “…”.
Một ấm trà sắp uống hết, lão tiên sinh cũng sắp kể đến đoạn kết cuộc chiến Đường – Tấn, bên ngoài nắng đã nhạt, ánh nắng lọt qua kẽ lá liễu dịu dàng tỏa xuống, hắt bóng nhảy nhót lên tường. Sau khi bị Mộ Ngôn chọc tức, tôi không còn thấy buồn ngủ nữa, gục đầu trên bàn lơ đãng quan sát nhân tình thế thái.
Lát sau, Mộ Ngôn đột nhiên nói: “Chuyện kể ở đây rất hay, mặc dù đa phần là nói quá, coi như nghe câu chuyện ly kỳ, cũng thấy thú vị”.
Đang nói đến đây, một chàng trai có vẻ rất hăng máu hét lên: “Tô Dự chẳng qua cũng chỉ có thế, nếu là tôi, cuộc chiến Đường – Tấn, vũng nước đục đó nhất định tôi sẽ không đi, đợi khi cả hai đại bại mới nhảy vào kiếm chác, chẳng phải quá tốt sao?”.
Xung quanh có người phụ họa.
Tôi lắc đầu, giơ tay cầm ấm trà, tỏ vẻ không tán đồng quan điểm đó.
Mộ Ngôn thong thả gập cái quạt trong tay: “Cô định nói gì à?”.
Tôi liếc nhanh chàng một cái, cúi đầu ấp úng: “Thôi”.
Chàng vừa rót trà cho tôi, vừa gặng hỏi: “Sao thế?”.
Tôi nói, “Bởi vì nói ra dài lắm, sau đó huynh lại bắt tôi ăn bánh bao, bánh chẻo gì đó, ăn xong tôi lại quên mất định nói gì”.
Bàn tay rót trà của chàng hơi run, bật cười: “Lần này tôi không bắt cô ăn, cô muốn nói gì cứ nói”.
Tôi nói: “Ồ, mà cũng chẳng có gì, chỉ là muốn bộc bạch một chút, định nói là thực ra cuộc đời giống như chiếc đồng hồ quả lắc, có vẻ như chỉ có hai khả năng, bên phải và bên trái, thực ra đúng là chỉ có hai khả năng bên phải và bên trái… huynh có thể nói trong quá trình quả lắc dao động diễn ra bao nhiêu khả năng, nhưng đều không phải là khả năng, chỉ là con đường dẫn tới khả năng, cuối cùng không ở bên phải thì ở bên trái. Tất cả đều có khả năng, nhưng cái gọi là tất cả đó chẳng qua cũng chỉ có hai khả năng hoặc bên phải, hoặc bên trái, chỉ có sự bất biến trong đó là không thể có, trừ phi đồng hồ hỏng, đó là hình dáng của sự sống dừng lại”. Nói xong liếm môi, hỏi chàng: “Huynh có hiểu không?”.
Chàng lắc đầu.
Tôi nghĩ phải nói thế nào đây, nghĩ hồi lâu cuối cùng nghĩ ra một ví dụ để đơn giản hóa ý của mình: “Thực ra chính là nói, giống như thế gian này, thế gian này không là đàn bà thì là đàn ông, đương nhiên nhân yêu cũng không phải không có, nhưng nếu anh ung dung làm một nhân yêu, nhất định sẽ bị xã hội kỳ thị, hơn nữa rất khó tìm bạn đời”. Tôi liếm môi hỏi, “Huynh hiểu không?”.
Chàng nói không hiểu.
Tôi bực mình “Thực ra rất đơn giản, ý tôi muốn nói chuyện này rất giống cảnh ngộ của Tô Dự, giả sử anh ta giữ thái độ trung dung, đứng ngoài cuộc, thì sau này anh ta sẽ rất khó tìm đồng minh trong các nước chư hầu. Những người kia đều suy nghĩ quá đơn giản, họ không biết thế sự rối loạn cũng giống như cuộc đời, không anh thì tôi, không tôi thì anh, nếu bản thân nước mình không đủ mạnh, về cơ bản không có tư cách trung dung, minh quân thánh chủ trong thời loạn thế lập trường phải rõ ràng. Đương nhiên nếu minh quân thánh chủ này đã là bá chủ một phương thì chẳng còn gì để nói”. Tôi nghiến răng: “Lần này huynh hiểu chưa?”.
Mắt chàng như cười, nhìn tôi: “Hay là chúng ta ăn chút gì đi, ăn xong hãy nói”.
“…”.
Nhớ lại thì đây là lần thứ hai tôi nghe thiên hạ bàn tán về Tô Dự ở chỗ đông người.
Nửa năm trước, con người đó dẫn mười vạn thiết binh nhẹ nhàng đánh bại Vệ quốc trong nụ cười nhạt, chứng tỏ dụng binh hết sức cơ mưu lại rất ung dung, trong cuộc khảo thí tuyển chọn quan lại ở đế đô, anh ta đã ra đề thi liên hệ với tình hình thời cuộc rất hóc búa, khiến cho những người hỏng thi vô cùng căm hận, người đó vinh hạnh trở thành nhân vật hoàng tộc bị giới nhân sĩ trí thức không ưa nhất trong năm.
Từ đó có thể thấy con người Tô Dự nhất định sau này sẽ làm nên nghiệp lớn, nhưng không phải là nói anh ta còn trẻ đã quyền cao chức trọng, hoặc có tài huấn luyện binh mã, chỉ có điều trong lịch sử, những người có thể ảnh hưởng đến tuyển lựa người làm quan cho triều đình đã chết sạch, anh ta là người sống duy nhất, khiến thiên hạ nhìn bằng con mắt khác. Hơn nữa có thể đồng thời bị nhiều người ghét như vậy cũng là một minh chứng, minh chứng anh ta hoặc là có ngoại hình xuất chúng, hoặc là nhà rất giàu sang, hoặc là rất có tài gì đó. Cho dù cả ba điều này đều không phải, ít nhất cũng chứng minh sự hiện hữu của con người anh ta rất nổi bật.
Nhưng bất luận thế nào, ngày hôm nay cũng là một ngày vô cùng viên mãn.
Đêm đen, gió vô tình khơi gợi tâm tư, tôi ngồi chong đèn viết những điều tâm đắc ngày hôm nay rồi thu xếp dọn dẹp chuẩn bị đi ngủ. Vừa tắt nến, ngoài cửa sổ cách giường hai bước đột nhiên có những tiếng động rất gấp, rồi có người rơi xuống đất, nền nhà bằng gỗ đàn hơi rung, tôi nghiêm giọng hỏi: “Ai?”.
Có vật gì lạnh ngắt chớp mắt đã kề cổ tôi, lúc này tay tôi đang mò tìm cái đánh lửa trong người. Về sau bao nhiêu lần nhớ lại cảnh đó, tôi cảm thấy mình đúng là đã thể hiện chí khí anh hùng, lúc nguy biến không hề sợ hãi. Nhưng thực ra chỉ là không biết vật kề cổ mình rút cục là vật gì. Sau đó xoẹt một cái, lửa lóe lên, tôi thận trọng cúi nhìn, một con dao găm sáng loáng .
Ánh lửa mờ mờ chiếu sáng một góc phòng, trên nền nhà là một đôi giày thêu có đường viền màu trắng, phía trên đôi giày là đường chân váy màu tím, cô gái kề dao vào cổ tôi khẽ cười: “Đao kiếm vô tình, cô nương xin chớ động đậy kẻo bị cứa đứt cổ”.
Tiếng cười gần trong gang tấc. Tôi liếc qua khóe mắt, quan sát người đó, ánh mắt vừa chạm mắt cô ta lại rùng mình kinh ngạc. Đó là khuôn mặt tôi đã nhìn thấy ở Trịnh vương cung, một khuôn mặt như hiện ra từ tranh thủy mặc, hoàn toàn giống hệt! Thập Tam Nguyệt.
Nhưng Hoa Tư dẫn tuyệt đối không thể sai sót, không như độc dược Quân sư phụ chế ra, chỉ làm người ta tắt thở tạm thời, cơ bản không đầu độc chết người, mặc dù nhìn đúng là đã chết, nhưng lúc khâm liệm lại là người sống. Tôi vẫn còn nhớ nửa tháng trước, đêm hai mươi lăm tháng năm trong Dụ Cẩm viên của Trịnh vương cung, tôi chơi Hoa Tư điệu tự tay kết thúc tính mạng của Thập Tam Nguyệt.
Lúc này cô ta có lẽ đã là cái xác mục nát dưới ba tấc đất, cho dù Dung Tầm có mật dược bảo quản tốt đến mấy cũng chỉ có thể như tôi, sắc mặt nhợt nhạt, người tỏa mùi tử khí, đương nhiên tử khí này người thường khó nhận ra, cho dù nhận ra cũng chỉ cảm thấy một khí chất khác thường. Nhưng Thập Tam Nguyệt trước mặt tôi sắc mặt hồng hào, còn đẹp hơn nhiều so với lần trước tôi gặp, quả thật không thể nào hình dung đó là người đã chết.
Tôi nhìn cô ta: “Tôi không biết cô, cô là ai?”.
Cô ta tiến gần tôi một chút, hơi cau mày, khóe miệng nhếch lên, từ từ nở nụ cười: “Là người qua đường thôi, muốn nhờ phòng cô nương một lát, trốn kẻ thù, băng bó vết thương”.
Con dao găm kề cổ tôi khẽ nhích, có lẽ muốn uy hiếp, nhưng cảm giác của tôi hết sức chậm chạp, thiếu nhạy cảm nên hiệu quả uy hiếp không như mong muốn. Nụ cười trong mắt cô ta càng rõ, mép lại nhếch cao hơn: “Cô nương bạo gan đấy”.
Giọng nói đó giống như tiếng thở dài gió đêm mang đến. Sau đó cô ta ép tôi vào cánh cửa phòng, con dao găm sượt qua tóc tôi, cắm vào cánh cửa gỗ, nụ cười vẫn trong mắt, nhưng không biết cười thật hay cười giả, giọng nói lại cực nhẹ: “Đề nghị của tôi, cô nương có bằng lòng không?”.
Tôi vội gật đầu: “Bằng lòng, bằng lòng”.
Kết quả một viên gì đó đột nhiên đã ở trong họng tôi, trượt xuống cổ, tôi mím môi suy nghĩ không biết viên giao châu trong người tôi liệu có thể giải độc .
Cô gái áo tím tự nói ra tên cô là Oanh Ca, nhưng tôi không tin, bởi vì ý nghĩa của cái tên chúng tôi đã tìm hiểu kỹ, kết luận rút ra là, phàm những kẻ lưu lạc giang hồ, ai chẳng có một nghệ danh.
Sau khi đầu độc xong, Oanh Ca thản nhiên ngồi lên giường sai tôi: “Thuốc, băng, nước sạch, dao, nến”. Vừa sai bảo tôi vừa cau mày cởi khuy áo, lộ ra vết thương ở bả vai, làn da trên bờ vai không bị rám nắng trắng lóa dưới ánh nến, máu thấm ra lớp vải băng trắng, trông như bông hoa đỗ quyên đỏ tươi, nở xòe trên bờ vai trắng như tuyết.
Những thứ cô cần hầu như đều có sẵn, tôi đưa cho cô thuốc cầm máu, nhìn vết kiếm thấu đến tận xương, tôi lè lưỡi ái ngại: “Đau lắm hả?”.
Cô nghiêng đầu nhìn tôi, răng cắn vào môi hằn lên mấy vết sâu nhợt nhạt, mặt vẫn gượng cười: “Cô thử đoán xem, trước khi lấy chồng tôi làm nghề gì?”.
Tôi lắc đầu, nói tôi vừa không biết cô đã lấy chồng, vừa không biết cô làm nghề gì.
Cô hơ con dao trên ngọn lửa, đột nhiên nhắm mắt, con dao cạo trên vết thương, lấy ra lớp thịt nát, trong phòng yên tĩnh, lát sau, nghe thấy một giọng khản, đứt quãng như từ dưới đất vọng lên: “Lúc đó tôi là một sát thủ, ngày nào dao cũng dính máu, giết người, bị giết, mấy lần đã đến quỷ môn quan, đau đớn mấy cũng đã trải qua”. Cô cười gằn, trong đêm tối có một vẻ ma quái, “Không ngờ nhàn rỗi mấy năm, hôm nay chỉ đau thế này đã không chịu nổi”.
Nói xong nghỉ một lát, lại bôi thuốc vào vết thương, mồ hôi toát ra trên trán, mép lại nhếch lên, “Cô nương sợ phải không? Tôi chỉ quấy quả đêm nay, sáng mai sẽ đi, sự chăm sóc của cô nương đêm nay, tôi xin cảm tạ trước”.
Thâm tâm tôi thấy thực ra chuyện này chẳng có gì đáng sợ, cũng không hiểu sao cô lại hỏi như vậy. Huống hồ, nếu nói sợ, có lẽ cô mới là người sợ, thử tưởng tượng đêm khuy vắng, ở chung phòng với một xác chết, hơn nữa xác chết này có thể nói chuyện với mình, đảo vị trí cho nhau, quả thực cô sợ mới phải.
Còn tôi vừa nghĩ xong điều đó, lòng đột nhiên chấn động, cảm thấy mớ hỗn loạn trong đầu đột nhiên lóe ra tia sáng, tôi hỏi cô: “Oanh Ca là tên thật của cô chứ?”.
Cô ngoẹo đầu trên thành giường, sắc mặt trắng xanh, trán lấm tấm mồ hôi, thật không thể tưởng tượng, lúc đau đớn như vậy cô vẫn có thể làm được bao động tác khó như thế, giọng nói vẫn ngắt quãng, nhưng đã có lực hơn: “Tên thật thì sao, tên giả thì sao, từ năm mười một tuổi đã không có ai gọi cái tên đó, Oanh Ca, Oanh Ca. Cô nói xem, thực ra cái tên đó hay đấy chứ. Ồ, cô đừng nhìn tôi lạ lùng như vậy, cũng không phải có gốc tích gì đặc biệt, khi sinh ra chị em tôi, cha tôi đã cõng cả một vại dưa muối đến nhờ ông giáo làng đặt giúp một cái tên sao cho vừa dễ nuôi vừa nho nhã. Tôi khóc to hơn cô em, tên là Oanh, nhưng hoàng oanh là loài chim quý yểu điệu, con nhà nghèo, lại là gái, sao có thể mang cái tên đó. Ông thầy nghĩ một lát, điền thêm một chữ Ca vào sau, ngụ ý để cho thần linh trên trời nhìn thấy tưởng rằng tôi là con trai, sẽ xứng đáng mang tên Oanh đó”.
Tôi đăm đăm nhìn cô, vẻ ngạc nhiên: “Thật thú vị!”. Lại hỏi tiếp: “Cô nói cô có một em gái? Vậy em cô tên gì?”.
Cô nheo mắt nhìn tôi từ đầu xuống chân, mỉm cười mơ hồ, “Quên rồi”.
Trên đời không thể có hai thứ giống hệt nhau, ngay quả trứng do một con gà mái đẻ ra cũng mỗi quả một vẻ, huống hồ con người.
Tôi suy nghĩ rất lâu, thầm đặt giả thiết: Oanh Ca và Thập Tam Nguyệt thực ra là một người, nhưng lại lập tức gạt đi. Giả thiết khác, dung mạo này của Oanh Ca thực ra là giống hệt dung mạo của Thập Tam Nguyệt đã chết, nhưng tại sao cô ta phải đội lốt Thập Tam Nguyệt lại trở thành một vấn đề mới. Còn một khả năng nữa, giả sử cô chị mà Thậm Tam Nguyệt nói trong Hoa Tư mộng thực ra chưa chết, cô chị đã khiến Thập Tam Nguyệt đau khổ day dứt đến mức lấy cái chết để tạ tội liệu có phải chính là Oanh Ca?
Trong thuốc có chất gây mê, Oanh Ca sau khi bôi thuốc, băng bó xong, lập tức ngủ thiếp đi, điều đáng quý nữa là trước khi ngủ cô còn xé một mảnh vải trói tay chân tôi lại.
Tôi nằm bên mép giường ngắm nhìn khuôn mặt cô, hai mắt nhắm, lông mày vẫn hơi chau, tôi thầm nghĩ điều bí ẩn tôi và Mộ Ngôn đang bôn ba tìm kiếm có lẽ câu trả lời đã ở trước mắt, chỉ có điều đó là một thứ quả vỏ cứng, tạm thời chưa biết ra tay thế nào.
Trong lòng nhất thời bấn loạn, mãi không ngủ được, khoảng một canh giờ sau, trong ánh trăng rọi đầy phòng, có tiếng sột soạt vang lên. Một con chuột lặng lẽ bò lên giá nến, định ăn trộm nến, tôi mở to mắt quan sát, sau lưng đột nhiên truyền đến tiếng thút thít khe khẽ, con chuột sợ quá chui xuống bàn chuồn mất, còn tôi lại lăn xuống đất.
Khó khăn ngồi dậy, Oanh Ca vẫn chưa tỉnh, trong giấc ngủ, khuôn mặt trắng nhợt đầy ngấn nước mắt, nước mắt vẫn đang tràn ra từ khóe mắt nhắm nghiền, một giọt to tròn rơi trên mặt chiếc gối gốm, nhưng không còn tiếng thút thít nữa, tôi quỳ trên nền đất, nhích lại gần một chút, nhìn kỹ mặt cô, thầm nghĩ có lẽ cô đang nằm mơ, không biết là giấc mơ như thế nào.
Cái quả vỏ cứng đó cuối cùng lộ ra kẽ nứt, muốn biết bí mật của cô lúc này chính là cơ hội tốt. Nhưng chuyện này liên quan đến vấn đề đạo đức, nghĩa là không nên dùng công lực của viên giao châu để đi vào giấc mơ của người khác. Nghe đồn những người có Hoa Tư dẫn trăm nghìn năm nay đều từng đối diện sự lựa chọn khó khăn như vậy, vấn đề này một thời cùng với vấn đề “đàn bà hoang thai liệu có thể phá thai” của triều đại nào đó trở thành vấn đề luân lý được xã hội rất quan tâm, cuối cùng biện pháp giải quyết vấn đề sau là đàn bà hoang thai sẽ bị nhốt trong chuồng lợn.
Thực ra dưới sức mạnh của bạo lực, mọi vấn đề đều không phải là vấn đề, bởi vì bản thân bạo lực đã là vấn đề lớn nhất. Tóm lại, lúc này tôi đang do dự, cái cớ giúp tôi đưa ra lựa chọn là một cơn giãy giụa của Oanh Ca trong mơ, đó là dấu hiệu bị đè nén, muốn vùng vẫy thoát ra. Tôi tìm một lý do cho mình, tôi cần đi vào giấc mơ của cô để đưa cô trở lại.
Tôi nắm chặt tay Oanh Ca, tập trung tinh lực, cảm nhận thần trí của cô để đi vào giấc mộng đang đè nén cô, mặc dù đây là lần đầu tiên dùng giao châu làm chuyện này nhưng cũng không thấy mệt, đó là do tôi là người chết, ít ham muốn đối với cuộc đời hơn các bậc tiền bối từng tu luyện Hoa Tư dẫn.
Không gian trước mắt xuất hiện một con đường cổ tối om, có tiếng trống điểm canh văng vẳng, một chiếc cầu bắc qua sông, có lẽ đây chính là chiếc cầu đi vào giấc mơ của Oanh Ca, tôi hít một hơi, đang định bước vào thì tay đột nhiên bị ai nắm lấy, bên tai có tiếng nói nhỏ “A Phất,”. Tôi sững người, định vùng khỏi bàn tay đó nhưng không kịp, tiếng trống điểm canh tan biến trong tận cùng bóng đêm, chớp mắt, tôi đã rơi vào giấc mơ của Oanh Ca.
Tôi đang ở một nơi xa lạ, ngẩng đầu nhìn thấy Mộ Ngôn đang nắm tay tôi, hỏi: “Sao cô lại vào đây?”.
Chàng hơi nhướn mày, mắt lại nhìn về phía trước, ở đó là một con ngõ sâu, hai bên là nhà dân tường đen ngói xanh, trên những mái hiên cong phủ lớp tuyết mỏng, trên trời trăng suông, bốn bề tĩnh mịch. Mộ Ngôn thôi không nhìn con ngõ, quay lại nói với tôi: “Nghe thấy phòng cô có tiếng động liền ghé qua, không ngờ…”. Chàng dừng lại: “Đây là đâu? Cô gái trong phòng cô là ai?”.
Tôi nói vắn tắt câu chuyện, người rét run cầm cập, đây chính là nỗi khổ của người đi xa không nắm được tình hình thời tiết. Mộ Ngôn vẫn giữ tay tôi, lát sau nói: “Sao tay cô lạnh thế?”.
Tôi thầm nghĩ, thật nực cười, tay người chết sao không lạnh, nhưng vẫn khinh suất rùng mình, định rút tay ra, Mộ Ngôn nhìn tôi, tôi nói khẽ: “Có thể là do… xương như ngọc, thịt như băng như truyền thuyết nói”.
Mộ Ngôn: “…”.
Trong con ngõ phía trước vẳng đến tiếng vó ngựa và tiếng bánh xe lăn trên đường đá, tôi đi lên trước vài bước, loáng thoáng nhìn thấy một người ăn mày rách rưới ngồi co ro trên đường, Mộ Ngôn kéo tôi lại, tôi ngoái đầu giải thích với chàng: “Người đó không nhìn thấy chúng ta”. Nghĩ một lát lại bổ sung, “Người trong giấc mơ này không nhìn thấy chúng ta”.
Một chiếc xe ngựa có mui từ trong ngõ tối phóng nhanh ra, cảm tưởng như sắp nghiến qua người ăn xin, phu xe vội kéo giật dây cương, con ngựa đen chồm hai vó trước, hí vang, trong xe có tiếng nói vọng ra: “Sao thế?”. Phu xe vội lùi xe ngựa về sau: “Có một người ăn xin ngáng đường”.
Rèm xe vén lên, lộ ra ống tay áo màu tím, phu xe nhảy xuống giữ con ngựa, kéo người ăn xin sang một bên, giọng nói nhỏ nhẹ, lạnh lùng trong xe lại vang lên sau bức rèm: “Đưa về phủ”. Phu xe nói: “Chúa thượng đây là…”.
Sau bức rèm vẳng ra tiếng cười: “Chưa biết chừng cô bé chính là… sát thủ tốt nhất trời ban cho ta như thầy bói phán”.
Tiếng vó ngựa mất hút trong ngõ, cảnh trước mắt trở nên vắng lặng, ngay sau đó đã thấy một căn phòng rộng sáng choang, ánh nến trùng trùng, từ chiếc đỉnh đá trên hương án khói bốc nghi ngút, trên giường một cô gái nhỏ nằm co quắp, đoán là người ăn xin bị ngất trên đường mấy khắc trước, có vẻ đã được thu xếp ổn thỏa, chỉ có điều không nhìn thấy mặt, một thiếu niên áo chùng tím đứng chếch trước giường. Xiêm y sang trọng, dáng dong dỏng nho nhã, cậu ta hơi cúi đầu: “Tên cô là gì, nhà có những ai?”. Cô gái nhỏ mở mắt định ngồi dậy, bị cô hầu bên cạnh giữ lại, chỉ thấy dưới lần chăn lộ ra khuôn mặt nhỏ như bàn tay, vàng võ, nhưng không hề sợ hãi: “Oanh Ca, nô tì lên là Oanh Ca, năm ngoái quê nhà bị lụt, cha mẹ nô tì đều qua đời, trong nhà chỉ còn bà nội và hai chị em nô tì”.
Tôi đi lại gần, mặt cô bé quả nhiên hơi nhang nhác Oanh Ca, không ngờ cô gái áo tím có nụ cười vừa dịu hiền vừa nghiêm khắc nửa thật nửa giả nhảy vào phòng trọ của tôi mặt mũi lúc nhỏ lại như vậy. Nhưng nhìn vào đôi mắt đen láy của cô bé, cuối cùng tôi đã có cảm giác hòa nhập vào cô bé. Viên giao châu phát huy công lực khiến thần trí tôi hòa nhập vào thần trí chủ nhân giấc mơ, cái hay là tôi có thể hiểu được suy nghĩ của họ, cái dở là có hiểu cũng chẳng ích gì.
Bởi vì tôi muốn khách quan nhìn thấy toàn cảnh sự việc, bởi tư tưởng con người nhiều khi đầy định kiến.
“Oanh Ca?”. Thiếu niên áo tím mỉm cười, “Vậy em gái cô chắc là OanhVũ”.
Đôi mắt đen láy của cô bé mở to nhìn thiếu niên, không hiểu cậu ta nói gì. Thiếu niên lơ đãng liếc nhìn khuôn mặt xanh xao của cô bé, rồi quay người nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài cửa sổ, thong thả: “Cái tên Oanh Ca quả là rất tuyệt, đêm nay đúng vào đêm mười ba tháng Chạp, là lúc trăng sáng nhất, vậy từ nay gọi cô là Thập Tam Nguyệt, ta đưa cô về đây, từ nay cô hãy theo ta”. Cùng với ánh nến, tôi nhìn rõ khuôn mặt tuấn lãng đoan nghiêm đó, vẫn còn vẻ non nớt thiếu niên, chiếc đai ngọc nổi bật giữ tà áo chùng tím, mặc dù đang cười, vẻ mặt lại lạnh như tuyết. Đó là… Trịnh hầu vương Dung Tầm thuở thiếu thời.
Tôi cúi nhìn tay mình, Thập Tam Nguyệt nửa tháng trước bị tôi chính tay giết chết thì ra đã bị tráo đổi sao?
Sau đó ánh nến trong phòng tan dần, cảnh trước mắt liên tục thay đổi, cảnh trí loang loáng chuyển động, tôi thầm nghĩ may mà mình không dễ say xe.
Lát sau cảnh trí dừng lại, một rừng trúc yên tĩnh mở ra trước mắt. Trên trời lác đác có những ngôi sao mọc sớm, giữa khoảng đất rộng đầy lá rụng có một đống lửa cháy không đượm lắm, đôi ủng da giẫm lên lá khô, dừng lại bên đống lửa, dọc theo đôi ủng nhìn lên trên, quả thật không thể tưởng tượng, người vừa đến chính là Dung Tầm.
Chàng nhìn quanh, khi liếc nhìn, trong ánh mắt lạnh như có ánh cười, nhưng nét mặt vẫn dửng dưng, giả bộ cúi nhìn đống lửa trên mặt đất, chính lúc đó trên không đột nhiên truyền đến tiếng lá trúc rào rào, một bóng dáng màu tím từ trên trời rơi xuống, người chàng hơi dịch sang phải né tránh, một con dao găm sắc bén sượt qua giải lụa trên búi tóc chàng, cắm sâu vào một thân trúc to sau lưng chàng, chàng không hề né tránh, mắt mở to nhìn bóng tím từ trên trời rơi xuống mỗi lúc mỗi gần.
Sau đó tất cả xảy ra rất nhanh, mấy chiêu giao đấu trực diện cơ hồ kết thúc trong nháy mắt, khi tôi định thần, nhìn rõ đã thấy Dung Tầm bị cô gái áo tím ép chặt xuống mặt đất. Cô gái trẻ hơn Oanh Ca bây giờ một chút.
Đống lửa cháy nổ lép bép, lửa hắt lên ánh trăng mờ tỏa xung quanh, vị công tử hào hoa bình thản nằm trên mặt đất trải đầy lá vàng khô, xung quanh trúc xanh lả lướt, cô gái áo tím đè trên ngực chàng, hai gối chống đất, mái tóc dài như dải lụa đen óng, tay trái nắm vạt áo chàng, nửa lưỡi dao găm dài sáng loáng cắm xuống đất.
Hai má cô đỏ hồng, động tác dứt khoát, tay trái dụng lực càng mạnh, ép càng chặt, chàng khẽ rên dưới thân cô, cô mở to đôi mắt đen láy nhìn chàng “Hôm nay, đao của em nhanh hơn hôm qua chứ?”.
Chàng giơ tay gối đầu, mỉm cười nhìn cô: “Nguyệt nương, em làm rất tốt, em có thể làm tốt hơn”.
Trên mặt cô lộ vẻ đắc ý, bàn tay nắm áo chàng hơi buông, khóe mắt chàng lóe ra tia lạnh, tay bất chợt vung lên như tia chớp khống chế bàn tay còn lại của cô, người bất ngờ bật lên, xoay chuyển tình thế, đè cô xuống đất, cả người cô đã bị khống chế, mặt lộ vẻ phẫn nộ, chàng nhìn cô, tươi cười: “Ta nói bao lần, muốn làm một sát thủ giỏi, từ mai phục đến ra tay, kết thúc, khâu nào cũng phải hết sức thận trọng”.
Cô cắn chặt môi, mặt lộ vẻ tủi thân, không cam chịu, hai tay vùng vẫy. Chàng giơ tay vuốt môi cô, bật cười thành tiếng: “Sao cắn chặt thế, không nén được giận sao”.
Mặt cô càng đỏ, ánh mắt nhìn chàng càng long lanh giận dữ.
Mộ Ngôn bên cạnh đột nhiên nói: “Hình như sắp mưa”, lời vừa dứt, trên trời đột nhiên xuất hiện ánh chớp, tiếp đó là trận mưa ầm ầm trút xuống. Oanh Ca vẫn còn ấm ức, ngồi thẳng người, ngay sau đó nép vào lòng Dung Tầm. Chàng nhẹ nhàng vỗ lưng cô, như an ủi đứa trẻ: “Vẫn sợ sấm? Như thế này sao có thể trở thành sát thủ giỏi”.
Cô nghiến răng ôm chặt cổ chàng, vẻ mặt đầy quyết liệt, nhưng lời nói ra lại hết sức trẻ con, “Em sợ thêm lần này nữa thôi”.
Chàng ngồi thẳng người nhìn cô đăm đăm, tay vuốt má cô, thở dài: “Thật hết cách”.
Sắc đêm trong rừng trúc không ngớt lay động như muốn vỡ tung, mưa sắp ập xuống, khi hạt mưa rơi trên áo tôi, cảnh trí trước mặt lại thay đổi. Đây là một sự thần kỳ, tôi có thể nhìn rõ từng hạt mưa rơi, lại có thể mang hạt mưa đó di chuyển sang cảnh sau.
Mộng cảnh này thật vô lý, tôi vừa nghĩ như vậy, vừa thầm tiếc, vừa rồi trên trời rơi xuống sao không phải là vàng bạc châu báu, khi đầu óc tỉnh táo trở lại, phát hiện bị Mộ Ngôn kéo đến đứng trước một khung cảnh rất đẹp, xung quanh rất nhiều hoa, còn có một cô gái đẹp như hoa.
Không biết tại sao, tôi biết, có lẽ là do thần trí hòa nhập, giống như ai đó viết lên trên não, nói với tôi đây là sinh nhật lần thứ mười sáu của Oanh Ca, nửa tháng trước cô đã tự dựng lên cảnh ngộ, bán mình vào lầu xanh này, quỳ phục giữa những cô gái trẻ đẹp, hôm nay sẽ giết chết một người mà định mệnh đã định phải chết trong tay cô, chính thức trở thành sát thủ bí mật của Dung gia, hoàn tất lễ trưởng thành của một sát thủ.
Tôi còn nhớ quanh cảnh lễ trưởng thành mười sáu tuổi của tôi, tôi trói chân tay Quân Vỹ ép anh ta nghe tôi đánh đàn suốt một ngày, tôi rất khoái trá, chỉ có điều hơi tàn nhẫn với Quân Vỹ, còn lễ trưởng thành của Oanh Ca đối với bất kỳ ai cũng là tàn nhẫn.
Mộ Ngôn ở phía sau gập quạt giấy đập lên vai tôi: “Cô dáo dác ngó quanh là muốn tìm ai?”.
Tôi hất chiếc quạt của chàng: “Tìm Dung Tầm”.
Chàng tỏ vẻ hứng thú: “Sao? Cô cho là chàng ta nhất định đến?”.
Tôi không chắc chắn lắm: “Cũng phải”. Nghĩ một lát hỏi chàng, “Nếu là huynh, huynh có đến không?”.
Chàng gập cái quạt: “Nếu sát thủ dưới tay tôi là cô, tôi sẽ đến”.
Tôi ngớ người, ngây ngây nhìn chàng.
Chàng liếc tôi, thong thả nói: “Cô ngốc thế, nếu tôi không đến, cô giết nhầm người thì sao?”.
Tôi tức giận: “Sao tôi có thể giết nhầm. Có lúc, có lúc tôi cũng hơi hồ đồ một chút, nhưng vào thời điểm quan trọng như vậy, tôi sẽ rất lợi hại”.
Chàng lại cười: “Thời điểm quan trọng? Lần trước găp chó sói trong đêm, nếu tôi không đến kịp, cô sẽ thế nào?”.
Tôi nói: “… Được, coi như chưa có cuộc trò chuyện vừa rồi”.
Chàng vẫn không chịu: “Lần trước trong Hoa Tư mộng của Thẩm phu nhân Tống Ngưng, cô bị rơi xuống núi, nếu tôi không theo kịp, thì cô thế nào?”.
Tôi nhích xa chàng một chút: “Chuyện đã qua sở dĩ đẹp chính là vì nó đã trở thành quá khứ, quá khứ hãy để cho tan thành mây khói, nào, chúng ta suy nghĩ vấn đề hiện thực quan trọng hơn”.
Chàng phe phảy cái quạt, dường như vẫn muốn nói tiếp, ánh mắt như cười, nhìn tôi không nói gì.
Tôi bảo chàng: “Huynh xem chuyện của Thập Tam Nguyệt, Thập Tam Nguyệt của Trịnh vương đã chết vì tình lúc còn sống luôn mồm nói có lỗi với chị gái, còn Oanh Ca còn sống lại giống hệt Thập Tam Nguyệt. Cô ấy có một cô em gái, chính cô ấy nói với tôi, cô ấy quên tên cô em đó rồi. Dung Tầm xem ra dường như rất có tình với Thập Tam Nguyệt trong Trịnh vương cung, nhưng rõ ràng cũng biết Thập Tam Nguyệt thật sự rút cục là ai, hơn nữa, cũng không có vẻ vô tình với Oanh Ca”.
Tôi vốn chỉ định chuyển chủ đề, nhưng cuối cùng lại bị cuốn hút bởi vấn đề vừa nêu, nghĩ một lát vẫn không tìm ra manh mối gì hơn, đành thở dài.
Tôi nói với Mộ Ngôn suy nghĩ của mình: “Dung Tầm kia cũng rất khó hiểu, cần tiếp xúc nhiều may ra biết thêm được gì. Ôi, nhưng cũng khó nói, phương ngôn có câu người trong cuộc thường mù quáng, có ý khuyên răn người đời cố gắng bình tĩnh trước những vấn đề nan giải, nhưng lại có câu không tìm hiểu, không có quyền phát ngôn. Ôi chao, tôi rất băn khoăn”.
Mộ Ngôn xua tay: “Tôi cũng rất băn khoăn. Cô lạc đề rồi, cô vừa nói gì tôi nghe chẳng hiểu gì hết”.
Trong hoa đình, trên sân khấu cao các cô ca kỹ đang biểu diễn, có một cây to, cành lá tươi tốt cao vút sum suê, dưới gốc cây đàn sáo tưng bừng, điệu múa lời ca dập dìu, làm như thiên hạ thái bình thịnh trị.
Chỉ có điều, tất cả đều là giả dối. Thật đáng buồn cho hoàng đế lúc vi hành thường thích đến chốn lầu xanh, bởi vì cho rằng nơi đây thượng vàng hạ cám hội tụ, có thể nghe thấy tiếng nói của muôn dân, nhưng rốt cuộc chỉ khiến cho hoàng đế càng thêm phong tình mà thôi.
Tôi kéo Mộ Ngôn vào một lầu nhỏ có rèm che màu hồng phía sau sân khấu, đi vòng qua một cái cửa gỗ chắc chắn, mở một cánh cửa, đúng lúc nhìn thấy Oanh Ca trang phục gọn gàng từ cửa sổ đối diện nhẹ nhàng nhảy vào. Có mấy cô gái cúi đầu đứng một bên, chờ được hầu hạ khách, hoàn toàn không hay biết gì, lập tức bị chuôi đao nhanh như cắt đập vào đầu, khụy xuống, bị kéo vào giấu dưới gầm giường, thời điểm chưa đến, Oanh Ca mười sáu tuổi bước đến trước đài gương, cầm lên chiếc quạt lụa có vẽ một khóm mẫu đơn mùa thu, kéo rèm cửa sổ, ngồi uống rượu một mình.
Tôi đã nhập được vào thần trí của Oanh Ca, tự nhiên biết cô ở đây, Mộ Ngôn cũng hiểu, chỉ hơi thán phục khung cảnh kỳ diệu của ảo mộng.
Không lâu sau, bên ngoài có tiếng bước chân, cánh cửa gỗ bị đẩy ra, một người đàn ông đi vào, mình mặc áo chùng lụa màu đen, khuôn mặt rất bình thường, hình như đã uống khá nhiều, bước chân lảo đảo.
Oanh Ca nhàn tản ngồi dựa mép giường, xòe chiếc quạt trong tay, miệng mỉm cười, đôi mắt đen láy đong đưa. Trông rất lả lướt phong tình, một vẻ phong nguyệt lão luyện, như người đàn bà lăn lộn đã lâu ở chốn nguyệt hoa.
Người đàn ông nheo mắt, đôi tay được chau chuốt kỹ càng âu yếm vuốt ve cái cổ thon nhỏ trắng bóc của cô: “Nghe nói nàng là người nước Lầu? Con gái nước Lầu da thịt trắng như mỡ, hôm nay phải cho ta xem…”. Tay anh ta hất tấm chăn mỏng phủ trên bụng cô, cúi đầu thô bạo cắn vào bờ vai trắng tuyết của cô: “… Xem có phải da nàng cũng trắng như mỡ”. Người đàn ông bắt đầu hôn từ bờ vai lên cổ, sắp phủ lên mặt cô, nhưng Oanh Ca vẫn không nhúc nhích.
Tôi thán phục nhìn con dao găm cắm vào lưng người đàn ông, hỏi Mộ Ngôn: “Huynh có nhìn rõ động tác rút dao vừa rồi của Oanh Ca không? Thật nhanh gọn”.
Người đàn ông chết trên người cô như vậy, cô lại chưa lập tức rút hung khí, mắt hoang mang nhìn đỉnh màn, không thấy nhanh nhẹn như khi cắm dao vào lưng người đàn ông. Lát sau, như sực nhớ ra điều gì, cô vội thu dọn hiện trường, xong xuôi ngoái lại nhìn khắp một vòng, rồi vội vã nhảy qua cửa sổ theo lối cũ.
Mộ Ngôn lập tức kéo tôi đuổi theo, phát hiện cô chưa ra khỏi đây, chỉ nhảy vào một gian phòng ở lầu dưới.
Mộ Ngôn khẽ cười bên tai tôi: “Đúng rồi, ai dám nghi ngờ cô gái ở bên cạnh Dung công tử lại là hung thủ giết người, cho dù có người nghi ngờ, Dung Tầm cũng sẽ đứng ra làm chứng, cô ta vẫn uống rượu, ngắm trăng họa vần với chàng ta, làm gì có thời gian đi hành hung”.
Mộ Ngôn ôm eo tôi cùng nhảy vào căn phòng Oanh Ca vừa vào, nói: “Đây chẳng có gì đáng gọi là cao mưu, mà dựa vào thân phận của Dung Tầm nên không có sai sót gì, Oanh Ca cô nương lần đầu giết người coi như làm rất tốt”.
Không ngoài dự đoán của Mộ Ngôn, Dung Tầm quả nhiên ở trong phòng. Trên chiếc bàn tròn bằng gỗ đàn màu tím viền đá vân hoa bày mấy món điểm tâm đơn giản, chiếc cốc bạc tinh xảo trong tay chàng ta, rượu chưa hết nửa. Bóng chàng ta đổ dài trong ánh nến, in lên tấm bình phong sau lưng vẽ cảnh đầm sen mùa thu dưới trăng. Ngoài cửa sổ, bắt đầu nổi gió lớn, những ánh nến chao đảo suýt tắt, gió vừa thổi qua là tiếng sấm đinh tai, ầm ầm như ở chân trời có vị thần ra sức khua chiêng.
Tôi cảm thấy hơi lạnh, khẽ dựa vào Mộ Ngôn, chàng nhìn tôi, kéo tôi lại gần hơn.
Sấm chớp từng trận nối nhau càng dầy đặc, Dung Tầm thong thả đặt chiếc cốc bạc trong tay xuống bàn, cầm một đài nến vòng qua tấm bình phong đi đến bên giường. Ánh nến màu vàng chiếu lên Oanh Ca nằm thu mình trên giường. Người cô run run, mắt lại mở rất to, lông mày chau lại, răng cắn ngập vào môi.
Chàng để ngọn nến một bên, giơ bàn tay mảnh khảnh vuốt ve đuôi mắt cô, dường như muốn lau những giọt nước mắt vô hình, cô ngây ngây nhìn chàng: “Em giết người”. Cô giơ cánh tay phải trắng như tuyết, đặt lên bờ vai Dung Tầm đang cúi xuống, “… Chính bàn tay này”.
Một tiếng sấm xé tai, mưa ầm ầm dội trên mái nhà, cô co người run rẩy, Dung Tầm hơi chau mày, nắm hai tay cô, nằm nghiêng, đối mặt với cô, cái gối bằng gốm không đủ rộng, chàng dịch sát vào cô, kéo thẳng đôi chân co quắp của cô, ôm cô vào lòng. Hai người đều mặc áo tím, giống như hai con bướm tím ôm chặt nhau. Môi chàng kề sát mái tóc đen của cô: “Em đã làm rất tốt”.
Cô lại lắc đầu, ngước mắt nhìn chàng, nói khẽ: “Em dùng dao găm đâm một nhát trúng tim, lúc chết hắn ta còn kinh ngạc trợn mắt nhìn em, máu hắn ta vọt ra, bắn đầy ngực em, cả đời em sẽ không quên vẻ mặt hắn ta lúc đó, mạng sống con người mong manh như vậy, em cảm thấy rất sợ, em sợ làm sát thủ, em sợ giết người”.
Cô gái nói ra những lời yếu đuối như vậy, trên mặt lại không có bất kỳ biểu cảm nào, mắt vẫn mở rất to.
Nến cháy gần hết chảy thành dòng xuống giá, chỉ còn lại đoạn lõi cuối cùng vẫn đang cố sức vùng vẫy, phát ra ánh sáng yếu ớt. Chàng giơ tay vuốt tóc cô, lát sau cười nhẹ: “Năm xưa lúc ta nhặt được em, em vẫn còn rất nhỏ, ta hỏi em có muốn theo ta không, em mở đôi mắt to, trong veo gật đầu lia lịa, điệu bộ thật đáng yêu. Ta nghĩ em sẽ là tác phẩm hoàn mỹ nhất của ta”.
Chàng hôn trán cô, ôm chặt cô vào lòng, nói vào tai cô, “Nguyệt nương, vì ta, hãy trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia này”.
Ngoài cửa sổ, mưa lạnh heo hắt rơi trên những khóm trúc tháng hai, từng giọt từng giọt rơi vào lòng tôi.
Sau đó cảnh trí thay đổi rất nhanh.
Thế giới sát thủ vô tình, chỉ có ánh đao lóe như chớp, vết máu loang và sự vùng vẫy của sinh mệnh trong khoảnh khắc giữa sống và chết. Tôi nhìn thấy thế giới của Oanh Ca ngày càng chìm sâu trong đó, eo giắt thanh đoản đao, như một đóa anh túc nở dần, cánh hoa là ánh dao sắc lạnh, còn hàng lông mày rậm của cô lạnh dần trong những bóng đao. Cảnh trí liên tục thay đổi giống như tấm gương vỡ trải trước mắt tôi, có những tiếng nói lao xao không biết từ đâu truyền đến: “Cô nương áo tím lúc nào cũng đi theo đình úy đại nhân lai lịch thế nào? Chậc, một khuôn mặt đẹp như vậy”, “Hừ, một khuôn mặt đẹp như vậy, lại nghe nói giết người không chớp mắt, đó là đệ nhất cao thủ của đình uý phủ, hộ vệ thiết thân của đình uý đại nhân”.
Những mảnh nhỏ trong tấm gương vỡ đó cùng với tiếng người xa dần rồi mất hẳn, thay vào đó là một sân khấu cao, một cô ca kỹ trang điểm cực kỳ xinh đẹp uốn mình như bông hoa lan, mắt sóng sánh đong đưa, bội phần quyến rũ, giọng mềm như nước đang hát một ca từ trong vở kịch tư xuân, ánh mắt quyến rũ mời gọi luôn hướng về Dung Tầm đang nhàn tản dựa tay vào lan can trên đài cao. Khoảng cách hai người không xa, cũng không gần, khi ánh mắt giao nhau, Dung Tầm mơ hồ mỉm cười.
Chính lúc đó, một cô gái áo xanh bưng khay trà đi đến bên Dung Tầm, đột nhiên rút từ ống tay áo một con dao găm sáng loáng. Cô gái còn chưa kịp ra tay đoản đao của Oanh Ca bên cạnh phi ra cắm vào giữa mặt cô ta, thanh đao sắc lẹm cắm vào giữa hai hàng lông mày, nhanh như tia chớp, khuôn mặt khá đẹp của cô gái bị xẻ làm hai nửa nhầy nhụa, máu phun vào khuôn mặt làn với da trắng tuyết của Oanh Ca. Cô cũng không hề chớp mắt. Trên đài cao chỗ Dung Tầm đang ngồi có tiếng kêu huyên náo, Oanh Ca lại như không nghe thấy, rút đao về, lau vết máu vào vạt áo tím, ngẩng đầu nhìn khuôn mặt trầm tư của Dung Tầm, mỉm cười với chàng: “Không sao chứ?”.
Dung Tầm liếc nhìn cô gái áo xanh nằm gục trên đất, hai mắt vẫn mở trừng trừng, cau mày: “Nhát đao quá hiểm”.
Oanh Ca cúi xuống, nhìn ngắm vết đao trên mặt cô gái: “Như thế này không đẹp lắm, hơi làm người ta sợ, sau này nên cắt đứt cổ thì hơn”.
Dung Tầm chìa tay kéo cô đứng lên, chậm rãi nói: “Ta còn nhớ lần đầu tiên em giết người, sợ run nép vào lòng ta”.
Cô mím môi: “Cuối cùng em đã lớn”.
Cô dựa người vào lan can chăm chú nhìn Dung Tầm, nói: “Em sẽ trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia”. Nói xong má ửng hồng, nổi bật trên làn da trắng đẹp mê hồn.
Dung Tầm lại không nhìn cô, ngoái nhìn ra xa, chỗ đó gió xuân đang vờn ngọn cây cao, bên dưới là thảm hoa đủ sắc màu, một đôi cò trắng cất tiếng kêu lanh lảnh, bay về phía chân trời xanh xa tít.
Oanh Ca không thể trở thành sát thủ tốt nhất của Dung gia, cũng như Quân Vỹ không thể trở thành tiểu thuyết gia chuyên nghiệp, bởi vì hai người đều bị phân tâm. Một tiểu thuyết gia chuyên nghiệp nên một lòng một dạ chuyên tâm viết tiểu thuyết, nhưng Quân Vỹ ngoài viết tiểu thuyết còn phải làm một kiếm khách để an ủi người cha.
Cũng như vậy, sát thủ tốt nhất nên một lòng một dạ chuyên tâm giết người, nhưng Oanh Ca ngoài giết người còn phân tâm bởi chuyện yêu đương với Dung Tầm, sát thủ tuyệt nhiên không thể có tình yêu, bởi giả sử sát thủ có người yêu, sát thủ sẽ bối rối khi người yêu xuất hiện đúng lúc sát thủ sắp ra tay, vậy là công việc bị cản trở, mà một khi công việc không thành, sát thủ coi như cũng khó giữ tính mạng.
Vì Dung Tầm, Oanh Ca khiến lòng mình trở nên sắt đá, vì Dung Tầm cô mới giết người, nhưng trái tim cô rốt cuộc vĩnh viễn không thể sắt đá đến mức một sát thủ cần có.
Đầu mùa hạ khi Oanh Ca mười chín tuổi, bà nội qua đời, cô lại đang bận một vụ việc ở xa, không thể về nhà nhìn mặt bà lần cuối, khi trở về Dung phủ, Dung Tầm đã cho người đón cô em gái của cô ở quê lên kinh thành.
Đó là một mùa hè mát mẻ, khắp đại viện của đình uý phủ nở đầy hoa tử dương, em gái vận đồ tang trắng toát, khuôn mặt giống hệt cô, hai hàng nước mắt đầm đìa đứng sau bụi hoa, tay ôm bình gốm đựng tro cốt bà nội.
Cô vội vàng trở về, vẫn màu áo tím trang nhã, dính đầy vết máu chưa kịp thay, gió thổi qua có thể ngửi thấy mùi máu tanh trên người cô. Cô em gái mím môi, điệu bộ giống hệt cô lúc mười lăm tuổi, vừa yếu đuối vừa kiên cường, lao vào tay cô, nghẹn ngào: “Bà rất muốn gặp chị, bà bảo nhất định phải gặp chị lần cuối mới nhắm mắt được”. Cô run run giơ tay đón bình tro, mặt không biểu cảm, hồi lâu sau mới nói: “Để bà yên tâm ra đi”.
Dung Tầm thong thả bước đến, nhìn hai chị em Oanh Ca ôm nhau, nói nhẹ nhàng: “Em mệt rồi, về nghỉ đi”.
Cô ngây người, buông em gái ra, tay vẫn ôm bình tro, chàng chăm chú nhìn cô: “Nghe nói ba ngày nay em không chợp mắt, việc hậu sự của bà nội em, ta sẽ lo liệu”.
Nói xong, chầm chậm quay đầu nhìn em gái cô, lại quay sang nhìn cô, “Vẫn tưởng tên cô ấy là Oanh Vũ, không ngờ lại là Cẩm Tước”. Cẩm Tước mặt vẫn còn nước mắt ngẩng phắt đầu, tròn mắt nhìn chàng, một đôi bướm trắng từ trong khóm hoa tử dương bay ra, bắt gặp ánh mắt đó của cô, Dung Tầm ngẩn người.
Hai con bướm trắng đùa giỡn trên khóm hoa bỗng chốc bốc cháy thành dải khói đen, lòng tôi đột nhiên trống rỗng, bỗng có một dự cảm chẳng lành, có lẽ cảnh ngộ này chính là nỗi khổ trong lòng Oanh Ca, còn đối với tôi phút nguy hiểm nhất cuối cùng đã đến.
Trong Hoa Tư mộng do tôi dệt ra, nơi hạnh phúc dừng chân chính là đau khổ, khi hy vọng tuyệt đỉnh chính là tuyệt vọng, tất cả vẫn rõ ràng như logic hiện thực. Nhưng trong cuộc sống, người ta thường dùng những phương thức cực đoan để chống lại sự bất lực của mình trước hiện thực.
Giống như tôi thích Mộ Ngôn, nhưng lại không có được chàng, vậy là tôi muốn giết chàng, chia cho chàng nửa viên giao châu để chúng tôi vĩnh viễn bên nhau, nhưng đây là ý nghĩ điên rồ. Chỉ cần còn lý trí, tôi sẽ không làm như vậy. Nhưng hàng ngày tôi vẫn có ý nghĩ đó, đành thể hiện trong giấc mơ, sau đó trong giấc mơ tôi trở thành kẻ giết người, đó chính là dùng hành động cực đoan chống lại hiện thực.
Hoặc là tôi phải độc ác hơn một chút, cảm thấy số phận mình quá thê thảm, muốn tất cả thiên hạ đều phải cùng chết với tôi, vậy là trong giấc mơ của tôi, xuất hiện cảnh trời long đất lở, biển cạn, đá mòn, đó chính là dùng phương thức cực đoan chống lại hiện thực… đây cũng là nguyên nhân Quân sư phụ khuyên tôi không nên tùy tiện nhập vào giấc mơ của người khác, giả sử tôi nhập vào giấc mơ của người nào đó, trong mơ người đó đang mơ cảnh trời long đất lở để xả thù hận trong lòng, tôi đột nhiên xuất hiện, không may bị đá lớn rơi trúng người, đè nát viên giao châu trong ngực, vậy là tôi chết chắc.
Giấc mơ của người sống đối với họ chỉ là mơ, nhưng với tôi lại vô cùng nguy hiểm. Giả sử tôi chết trong giấc mơ của họ, có nghĩa là sinh mệnh tôi chấm dứt thực sự.
Oanh Ca trong giấc mơ lúc này muốn hủy diệt tất cả, tôi không biết hy vọng và đau khổ của cô là gì, chỉ biết cô lựa chọn hủy hoại tất cả để kết thúc mọi hạnh phúc đau khổ của mình, còn tôi phải tìm cách nhanh chóng đưa cô ra khỏi giấc mơ trước khi cô làm việc đó.
Nhưng rõ ràng đã không kịp, chính lúc tôi giằng khỏi tay Mộ Ngôn chạy thục mạng về phía Oanh Ca, trời đất đột nhiên một dải trống không, không gian bao la trong chớp mắt đã nhấn chìm khóm hoa tử dương trắng, mây đen như mực cuồn cuộn phía chân trời, ào ạt tản ra che kín bầu trời, đây chính là ảo mộng, một khắc trước vẫn còn là cuộc sống hồng trần tràn đầy sinh khí, một khắc sau trời đất đã đổi thay, chỉ còn một màu đen như mực.
Bóng Oanh Ca biến mất trong màu đen đó, tôi đột nhiên hoang mang, dừng lại không biết nên chạy hướng nào, bỗng cả người bị kéo giật về sau, cánh tay áo màu lam quàng vào cổ tôi, hơi thở của Mộ Ngôn đã sát bên tai, nặng nề đầy nộ khí: “Chạy nhanh thế, không biết đang rất nguy hiểm sao?”.
Tôi nắm tay áo chàng chạy thục mạng, chỉ tay về phía trước: “Ô, thần kỳ quá, huynh xem, đó là gì vậy?”.
Chàng dừng lại, nắm cánh tay tôi đi về phía ánh sáng đột nhiên hiện ra trong mây đen. Trong màn đêm đen hun hút trống vắng như cánh đồng hoang, chỉ nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi bì bõm như đang giẫm lên nước.
Màn đêm đen kịt rạn dần, trên trời hiện ra một vầng trăng bạc rất tròn. Trong ánh trăng trắng lạnh, một cây anh đào lớn ngả nghiêng trong gió, từng cánh hoa phấn hồng bay lả tả như những bông hoa tuyết màu hồng.
Oanh Ca mình vận áo tím, tay cầm bình rượu nhàn tản ngồi dựa gốc cây, hơi ngẩng đầu nhìn người đàn ông áo trắng vẻ mặt nghiêm lạnh đứng trước mặt. Mộ Ngôn đã được coi là vô cùng tuấn tú, nhưng người đàn ông này còn tuấn tú hơn, cả thân mình như khoác ánh trăng bạc, sắc mặt càng lạnh lùng.
Gió lạnh tháng ba mang theo cánh hoa anh đào và giọng nói Oanh Ca truyền đến: “Nếu đường đao của bệ hạ nhanh hơn thiếp, ngoài chấp nhận những nghi thức cung đình phiền hà, thiếp cũng sẽ tình nguyện hầu bệ hạ chuyện gối chăn…”.
Lời cô chưa dứt, một đường đao dài đã vạch một đường vòng cung lóe sáng trong không trung, rồi nhanh chóng thu về, người đàn ông vẫn đứng bất động, dải lụa hồng trên búi tóc cuốn cao của cô đứt phựt cùng với âm thanh sắc gọn, mái tóc đen óng như tơ xõa xuống vai, mấy cánh hoa anh đào bị chém đứt, tơi tả bay trước ngực cô.
Cô sững người nhìn chàng một lát, cười khanh khách: “Hóa ra trường đao ở thắt lưng chàng không phải đeo làm vì”.
Đôi mắt đen của chàng sóng sánh phong tình, nhưng vẫn trầm mặc không hề suồng sã. Chàng bước lên hai bước, hơi cúi người chìa tay cho cô: “Vụ cá cược vừa rồi của phu nhân, quả nhân đã thắng”.
Cô giơ tay, làm như định nắm tay chàng, nhưng lại chộp lấy vai chàng, tay vừa giơ lên, chớp mắt đã kéo tuột dải lụa trên búi tóc chàng. Cô cười nhạt, vỗ tay: “Như thế mới công bằng”.
Trong cánh hoa anh đào phơ phất, tay cầm bình rượu cô loạng choạng bước đi, nụ cười trên mặt như có như không. Chàng đi sau, sắc mặt lạnh lùng, nhìn thân người lảo đảo xiêu vẹo của cô cũng không dìu đỡ. Lớp mây dày tản ra, có tiếng hát du dương vọng ra sau đám mây: “Chuyện xưa như một tiếng than, mộng vàng tan vỡ hồng trần hư không, tình sơn nghĩa hải trầm luân, ngoái đầu phút chốc đã thành thiên thu…”.
Mộ Ngôn hỏi tôi: “Có nên đi theo không?”.
Tôi lắc đầu. Mộng cảnh này đã quá nguy hiểm, sau khi người đàn ông áo trắng xuất hiện tất cả cơ hồ đang phát triển theo hướng tốt. Tôi hỏi Mộ Ngôn: “Huynh có biết người đàn ông áo trắng là ai không?”.
Chàng dừng lại nói: “Trịnh quốc tiên vương, Cảnh hầu vương Dung Viên, thúc phụ cùng tuổi với Bình hầu vương Dung Tầm”.
Tôi còn chưa kịp đưa Oanh Ca thoát khỏi giấc mơ, giấc mơ đó của cô đã tự kết thúc trong hòa bình, bị ném ra khỏi giấc mơ quả thực khó chịu, điều này có thể đoán được qua cái cau mày của Mộ Ngôn, tôi quả không có cảm giác gì, nhưng để chàng khỏi nghi ngờ, cũng đành giả bộ khó chịu.
Khi Mộ Ngôn đã trở về phòng của mình, Oanh Ca mới tỉnh hoàn toàn, mắt mơ màng nhìn tôi: “Tài cởi trói của cô cũng không tồi”. Tôi nghĩ quả thực không tồi, lúc nhỏ tôi và Quân Vỹ thường hay chơi trò đó, dù anh ta trói kiểu gì tôi cũng nhẹ nhàng thoát được, huống hồ cô chỉ trói sơ sài.
Tôi cầm đèn đi lại gần cô, hỏi: “Cô vừa mơ thấy gì?”.
Cô cau mày, trầm tư một lát, cười: “Phu quân của tôi”. Lúc sau, lại nói: “Người ta bảo chàng đã chết, nhưng tôi không tin”.
Trăng lạnh gió thanh, cô ngồi trên giường, co một chân gục vào đầu gối, lại mỉm cười như thật như ảo: “Còn mơ thấy rất nhiều chuyện cũ, miên man mãi, đột nhiên nhớ ra người ta bảo phu quân tôi đã chết, tôi liền nghĩ, nếu phu quân quả thực đã xa tôi mãi mãi, vậy tôi còn cần đến giấc mơ an ủi này làm gì? Chi bằng phá hủy cho xong”.
Cô ngẩng đầu nhìn tôi: “Cô thấy đúng không?”.
Tôi gật đầu, “Đúng”. Quả thật trong lòng tôi đã nghĩ như vậy, nếu có ngày Mộ Ngôn rời xa tôi, và giả sử tôi có sức mạnh hủy diệt thế giới này, nhất định tôi sẽ hủy diệt tan tành, nhưng may cuối cùng không phải chàng rời xa tôi trước, mà chính tôi rời xa chàng trước.
Lần đầu tiên tôi thấy may mắn vì mình đã chết.