Chương 1
Dường như khi trở thành một chàng trai mười tám tuổi, không chú bé nào là không phấn khởi. Đối với tôi cũng vậy, đó là một ngày kỳ diệu vô cùng.
Tôi còn nhớ trước đó hai năm, khi một đứa bạn cùng lớp hí hửng khoe : "Thế là năm nay tao mười tám tuổi"... tôi đã ghen tị một cách khổ sở với hạnh phúc của nó. Mặc dù lớn xác như nó, đi học trễ hơn bạn bè hai, ba năm, chẳng được cái vinh dự gì ngoài mỗi "ưu điểm" to con nên được cô chủ nhiệm phân làm lớp trưởng. Tuy nhiên mười tám tuổi vẫn cứ là mười tám tuổi, vẫn cứ là cái tuổi oai vệ, đáng ao ước và đầy bí mật đối với bọn nhóc tì như tôi. Lúc đó, tôi đã cay đắng vô cùng khi nhận ra rằng mình phải phấn đấu đến hai năm đằng đẵng nữa mới được như nó.
Thế rồi mải học hành, mải vui chơi, tôi quên béng mất sự mong ngóng nôn nao của mình. Đùng một cái, nó tới lúc nào chẳng hay, cái tuổi mười tám ấy. Nó tới và nhe răng cười với tôi, vào một buổi sáng rực rỡ đầy ắp nắng hồng và hương thơm.
Mười tám tuổi, tôi có hai niềm vui rộng lớn, hai bước đi quan trọng trong cuộc đời : một chân bước vào ngưỡng cửa người lớn, và một chân chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa đại học.
Cửa người lớn thì rộng, trẻ em tới tuổi cứ xộc vào tự do, chẳng ai cấm cản hay soát vé. Nhưng cửa vào đại học thì không phải dành cho tất cả mọi người. Muốn vào phải thi mà phải thi đậu kia!
Quê tôi không có trường đại học. Hồi nhỏ tôi học cấp một ở trường xã, những ngày lười đi học bị mẹ vác roi rượt chạy tới tận cổng trường. Lên cấp hai, phải ra trường huyện. Lên cấp ba, lại ra tỉnh lỵ. Trường tỉnh chỉ mới mở lớp mười. Tôi tính học xong lớp mười sẽ xin ra thành phố học tiếp. Nhưng tôi vừa học xong lớp mười, trường mở thêm lớp mười một. Tôi học hết lớp mười một, trường lại mở lớp mười hai. Tôi đã học lê lết hết trường này đến trường khác nhưng thật tôi chưa thấy trường nào dễ thương như trường tôi đang học. Làm như ban giám hiệu sợ tôi buồn nên cứ mở hết lớp này đến lớp khác cho tôi học.
Nhưng đến khi học hết lớp mười hai thì tôi đành phải giã từ tỉnh lỵ. Lúc đó, tôi đã thi đỗ tú tài hai với hạng bình thứ, một thứ hạng thường thường bậc trung nhưng cũng đủ cho tôi dọn đường vào đại học.
Những học sinh tỉnh lẻ miền Trung như tôi, muốn vào đại học phải chọn hai nơi : hoặc ra Huế, hoặc vào Sài Gòn. Tôi phân vân hoài không biết nên đi ra ngõ ngoài hay đi vào ngõ trong. Ba tôi lúc này ở xa, không góp ý gì cho tôi được. Là sĩ quan quân đội, ông bị điều động đi hết nơi này đến nơi khác, năm thì mười họa mới tạt về thăm gia đình. Ở nhà chỉ có mấy mẹ con tôi. Mẹ tôi thì suốt đời lo chuyện nội trợ trong nhà, đâu có rành ba cái chuyện "tiến thân" của tôi.
Tôi hỏi thì mẹ tôi hỏi lại :
- Vậy chớ thằng Hoa đi đâu?
Hoa là thằng bạn thân cùng lớp tôi hay dẫn về nhà chơi.
- Nó đi Huế! - Tôi đáp.
- Vậy thì mày đi Huế học cho có anh có em!
Cái kiểu mẹ tôi trả lời, muốn nghe cũng được, không nghe cũng không sao. Cái câu đó có nghĩa là : "Tùy mày!".
Tôi bỏ ra đường quốc lộ đứng trông Nam trông Bắc một hồi. Cuối cùng, tôi quyết định xuất hành về hướng Nam. Kệ, đi Sài Gòn cho biết, tôi nhủ bụng, còn Huế thì mình đã đến một lần rồi!
Chuyến đi Huế của tôi xảy ra cách đây năm năm. Lúc đó tôi mới mười ba tuổi. Đó là một chuyến đi chẳng thú vị gì và bắt đầu bởi một tai họa không đâu. Một bữa trưa, đang ngồi ăn cơm, thấy hai con chó giành nhau khúc xương, cắn lộn ầm ĩ dưới gầm bàn, tôi liền đưa chân... can thiệp. Con Bi lễ phép, thấy chân chủ thò ra, cúi đầu chào một cái rồi cụp đuôi lảng mất. Còn con Mi-nô đang say máu, tưởng chân tôi là cục xương, bèn nhe răng đớp một phát, máu chảy ròng ròng.
Bị chó nhà cắn tưởng chuyện bình thường, không dè hai ngày sau con Mi-nô tự nhiên lăn đùng ra chết, mõm sùi bọt. Mẹ tôi hoảng lên, nghi con Mi-nô bị dại, bắt tôi đi chích thuốc.
Thuốc trị bệnh chó dại của viện Pasteur lúc đó chỉ có ở Qui Nhơn hoặc ở Huế. Nhưng ở Qui Nhơn, tôi không có bà con thân thích. Chú Năm, em ruột ba tôi, là trung sĩ quân y, đang đóng ở Huế. Thế là tôi theo cô tôi lên đường ra đất thần kinh, bụng thon thót cứ sợ chết dọc đường.
Vừa ra đến nơi, tôi chưa kịp thở đã vội vã theo chú Năm đến bệnh viện. Cái bệnh viện đó lớn nhỏ như thế nào, bây giờ tôi không nhớ. Ngược lại, tôi nhớ mãi, nhớ đến già cái mũi kim to sụ lầm mũi chích vào da bụng tôi cái thứ thuốc đùng đục, đau muốn thấu xương. Mỗi khi chích thuốc xong, bụng tôi nổi lên một cục to bằng quả trứng gà, dọc đường từ bệnh viện về nhà tôi phải lấy tay xoa mãi.
Ngày này qua ngày nọ, liên tiếp hơn nửa tháng trời, cứ khoảng chín giờ sáng tôi lại đến bệnh viện chích thuốc, thoạt đầu chú Năm dẫn tôi đi, về sau tôi đi một mình. Những lúc rảnh rỗi trong ngày, tôi cũng theo chú Năm đi đây đi đó nhưng trong trí nhớ của tôi những thắng cảnh của Huế nhạt nhòa hơn mũi kim tiêm kia nhiều. Nhưng dù sao tôi cũng đã đặt chân đến Huế.
Còn Sài Gòn thì trước nay tôi mới chỉ nghe nói đến, mới chỉ đọc trong sách báo, xem trong phim ảnh. Trong trí tưởng tượng của tôi, Sài Gòn như là một nước nào đó, kỳ diệu và lạ lẫm. Hiếm hoi lắm mới có một người ở quê đi Sài Gòn. Khi về, họ kể trăm chuyện lạ lùng, người lớn con nít ngồi bu quanh nghe như nghe chuyện cổ. Có người đi khoảng nửa tháng về, tiếng nói nghe cũng đã khác. Thay vì nói "trời đất ơi", họ lại kêu "chèng đéc ơi", nghe lạ hoắc. Họ không nói "khát nước quá xá" như trước đây mà nói "khát nước quá à ơi". Như thằng Bảo con ông Năm Khang, đi Sài Gòn về ghé nhà tôi chơi, lúc chào về, nó không nói "về" như mọi khi mà lại nói "chào thím Sáu con dìa" khiến mẹ tôi phải ngớ người ra một hồi mới hiểu.
Nhưng thường thường những người này chỉ giả giọng Sài Gòn lấy oai với bà con chòm xóm chừng một tuần, lại trở về với cái giọng quê kiểng thường ngày của xứ tôi như cũ.
Tất nhiên tôi muốn vào học ở Sài Gòn không phải để Tết về thưa mẹ "con mới dìa" như kiểu thằng Bảo. Ở lứa tuổi mười tám, đôi mươi, con người ta ai cũng muốn đến những thành phố lớn, những chốn văn minh đô hội để mở mang hiểu biết và thử sức với đời. Nhất là một chàng trai tỉnh lẻ như tôi.
Ngày tôi lên đường, ngoài mẹ tôi và mấy đứa em tôi còn có rất nhiều bà con họ hàng tiễn tôi ra tận bến xe. Nếu ba tôi có nhà, có lẽ ông sẽ đi cùng với tôi vào Sài Gòn. Nhưng ba tôi không về được, tôi đành phải đi một mình.
Ngoài va-li đựng quần áo, sách vở, tôi còn mang theo một túi sách to tướng trong đó mẹ tôi nhét đủ thứ đồ ăn, thuốc men và bánh trái. Mấy ngày trước đó, các cô chú cậu mợ dì dượng của tôi đem biếu tôi không thiếu một thứ gì, làm như tôi là Robinson chuẩn bị ra hoang đảo vậy. Bánh trái các loại tôi đã ăn lấy ăn để hai ba ngày nay, vậy mà khi đi tôi chỉ có thể mang theo chừng một phần ba.
Cả tuần lễ nay, mẹ tôi đã dặn dò tôi đủ điều, vậy mà đến bây giờ, khi tôi đã ngồi trên xe rồi, mẹ tôi vẫn cảm thấy còn nhiều điều chưa kịp nói. Bà đứng bên cạnh thùng xe, thò tay qua ô cửa nắm chặt tay tôi, miệng không ngừng nhắc đi nhắc lại những câu tôi đã thuộc lòng.
Không hiểu sao tôi chẳng thấy buồn chút nào. Có lẽ tâm trí tôi mải nghĩ tới cuộc sống mới lạ và hấp dẫn đang chờ đợi tôi phía trước. Chỉ đến khi xe lăn bánh, ngoảnh đầu lại thấy mẹ và các em tôi cùng các cô dì chú bác khuất dần sau lớp bụi mờ, tôi mới hay mình đã khóc.
Chương 2
Từ quê tôi vô Sài Gòn, xe chạy nhanh hơn hai ngày một đêm. Xe tới bến lúc tôi đang ngủ gà ngủ gật. Ông sồn sồn ngồi bênh cạnh lay vai tôi:
- Dậy đi chú em! Tới nơi rồi!
Tôi giật mình mở choàng mắt. Đợi hành khách xuống gần phân nửa, tôi lật đật chui ra.
Bến xe đông nghịt người. Quán xá chen chúc cả dãy dài. Hàng rong khắp nơi, tiếng rao inh ỏi. Trong khi tôi đang ngơ ngác trước cảnh tượng náo nhiệt thì đám xích-lô bu lại. Cả chục giọng chào mời:
- Thầy Hai đi đâu, lên xe tui chở về!
Tự dưng được thiên hạ kêu "thầy", tôi vừa thinh thích vừa thấy ngồ ngộ. Trong khi tôi đang phân vân, chưa biết nên đi xe nào thì một anh thanh niên vẹt đám người bước tới giật chiếc va-li trên tay tôi rồi phăng phăng chạy đi.
Tôi đớ người tính la lên, bỗng anh thanh niên quay cổ lại kêu tôi trong khi chân vẫn tiếp tục rảo bước:
- Thầy Hai lại đây, tui chở về!
Không biết làm sao, tôi đành phải vội vã đuổi theo anh xích-lô quỷ quái nọ, trong bụng đã bắt đầu thấy ớn cái đất Sài Gòn. Đuổi theo tôi là những tiếng chửi lằm bằm của đám xích-lô bị giựt mối.
Anh xích-lô một tay đẩy xe một tay đưa va-li cho tôi:
- Thầy Hai ngồi ôm va-li còn cái túi trên vai thầy Hai đưa đây, tui để trên càng xe!
Đỡ lấy cái túi xách trên tay tôi, anh xíxh-lô bỗng la lên:
- Chết mẹ! Tụi lưu manh nó rạch cái túi của thầy Hai rồi! Thầy coi lại thử có mất thứ gì không!
Tiếng la của anh xích-lô làm tôi bàng hoàng. Tôi cầm lấy cái túi xách và điếng hồn khi thấy một đường rạch dài chạy suốt bên hông. Tôi lật đật cái túi xách xuống, mở ra xem. Cũng may là quần áo tiền bạc tôi bỏ trong va-li. Túi xách chỉ đựng toàn bánh trái, nên bọn lưu manh chẳng lấy được gì, chỉ tiếc là tiếc cái túi.
Nhét chùm bánh ít bị lòi ruột vào lại trong túi, tôi lặng lẽ leo lên xe, trong lòng vừa hậm hực vừa lo âu.
- Thầy Hai về đâu?
Bây giờ tôi mới nhớ là mình chưa nói địa chỉ của dì Ba, nơi tôi sẽ ở trong thời gian tới, cho anh xích-lô biết. Dì Ba là chị của mẹ tôi. Dì theo chồng vào Sài Gòn đã gần mười lăm năm nay. Hồi đó tôi còn nhỏ nên hình ảnh dì tôi chỉ nhớ loáng thoáng. Còn dượng Ba thì tôi chưa gặp lần nào, tôi chỉ biết dượng Ba qua thư từ và qua lời mẹ tôi kể.
Tôi nói địa chỉ nhưng dường như anh xích-lô không nghe ra. Anh ta lại hỏi:
- Thầy Hai về đâu?
Tôi lại trả lời. Anh ta vểnh tai nghe xong lại lắc đầu:
- Thầy nói giọng khó nghe quá! Thầy nói đường đó là đường gì?
Cảm thấy lúng túng và mắc cỡ khi phải lập lại lần nữa, tôi liền rút tờ giấy ghi địa chỉ đưa cho anh ta.
Xem xong, anh ta gật gù :
- À, té ra thầy về đường Bà Hạt. Bà Hạt mà khi nãy thầy nói tui nghe không ra!
Xe chạy lòng vòng. Tôi ngồi ôm cứng cái va-li trước ngực như sợ ai giựt mất.
- Hình như thầy mới tới đây lần đầu?
Anh xích-lô vừa đạp vừa lân la hỏi chuyện.
Tôi gật đầu.
- Phải lần đầu không thầy?
Anh xích-lô lại hỏi. Tôi sực nhớ ra anh ta không thấy cái gật đầu của tôi, liền đáp:
- Dạ.
- Tôi đoán là thầy vô đây đi học?
- Dạ.
- Dòm cái tướng thư sinh của thầy là tui biết liền! - Rồi anh ta khịt mũi, nói tiếp - Sống ở cái đất này thầy phải coi chừng, bọn cướp giựt trộm cắp đầy rẫy, nhất là ở các bến xe, chợ búa. Mà tướng thầy thì khù khờ...
Lời nhận xét của anh xích-lô khiến tôi đỏ mặt. May mà anh ta không nhìn thấy.
- Tụi nó rạch lúc nào lẹ quá! - Tôi nói.
- Dễ ợt chớ có khó gì đâu, thầy! Tại thầy không biết đó thôi! Ôm trước ngực tụi nó còn rạch được nũa là đeo trên vai. Tụi nó chỉ cần đeo chiếc nhẫn có cạnh nhọn rồi giả bộ chen lấn, áp sát cái mặt nhẫn vô túi xách của thầy. Thầy quay qua quay lại là "rẹt" một cái liền.
Nghe anh ta nói, tôi nghe lạnh sống lưng. Bọn chúng chơi kiểu đó trời chưa chắc đã biết, huống hồ chi một kẻ "khù khờ" như tôi.
Mải nghĩ đến những chuyện u ám đó, tôi chẳng còn đầu óc đâu ngắm cảnh phố phường. Dù vậy, những đường phố thênh thang rộn rịp xe cộ, những toà buynđding cao ngất hai bên đường cũng gây cho tôi một ấn tượng choáng ngợp. Thật khác xa các tỉnh lỵ, các thị trấn khiêm nhường ở quê tôi. Nhất là khi đi ngang Ngã Bảy, tôi cảm thấy hoa cả mắt trước một giao lộ chằng chịt với cơ man người xe qua lại.
Lát sau, xe rẽ vào một con đường nhỏ và dừng lại trước một con hẻm.
- Tới rồi, thầy Hai.
Tôi bước xuống đất, miệng hỏi:
- Anh lấy bao nhiêu tiền?
Anh xích-lô đỡ cái túi trên càng xe đưa cho tôi:
- Dạ, thầy Hai cho năm trăm.
Tôi chẳng biết mắc rẻ ra sao, cứ móc tiền đưa đại. Đối với tôi lúc này, về được tới nhà là yên tâm lắm rồi, khỏi phải sợ gặp rắc rối dọc đường.
Chương 3
Gọi là hẻm nhưng con đường dẫn vô nhà dì BA là một khoảnh sân tráng xi-măng của một căn nhà nằm thụt sâu bên trong. Khoảnh sân chạy dọc theo hông của một dãy nhà bề thế và đủ rộng cho xe ô-tô đi lọt.
Đi hết khoảnh sân dài độ ba chục mét, đụng phải căn nhà phía trong, quẹo phải là tới nhà dì tôi.
Khác với những tòa nhà lộng lẫy tôi vừa thấy ngoài phố, căn nhà của dì tôi trông có vẻ đơn sơ, mái tôn, vách gỗ, các phòng trong nhà ngăn bằng ván ép. Sau này tôi mới biết dì không có nhà riêng. Căn nhà hiện ở là căn nhà dì thuê của chủ tòa biệt thự bề thế đằng trước.
Sau khi đã nhìn kỹ biển số nhà gắn trước cửa, biết chắc là mình không lầm, tôi rụt rè bước chân qua ngường cửa.
Ngồi trên đi-văng đằng trước là một người đàn bà đứng tuổi, mặt mày có vẻ phúc hậu. Tôi ngợ không biết đó có phải là dì Ba không.
Thấy điệu bộ lớ ngớ của tôi, người đàn bà hỏi :
- Cháu tìm ai?
Tôi đặt túi xách và va-li xuống đất, lễ phép thưa :
- Dạ thưa dì Ba...
Người đàn bà mỉm cười ngắt lời tôi :
- À, tìm dì Ba hả? Bác không phải là dì Ba! Bác là bác Tám nhà hàng xóm!
Nói xong, bác Tám quay vô trong, kêu lớn :
- Dì Ba ơi! Có khách tìm dì nè!
Lát sau, dì Ba đi ra. Mặc dù đã lâu không gặp dì nhưng không hiểu vì sao vừa trông thấy dì tôi nhận ra ngay những nét quen thuộc. Dì có khuôn mặt tròn, đầy đặn, nụ cười cởi mở. So với hình ảnh trước đây của dì trong đầu tôi thì dì mập ra nhiều.
Tôi chưa kịp chào, dì đã lên tiếng :
- Cháu là Chương phải không?
Tôi trố mắt :
- Dạ! Ủa sao dì biết?
Dì cười :
- Ba cháu có đánh điện cho dì, nói là cháu sắp vào.
Rồi dì nắm lấy tay tôi :
- Cháu mau lớn quá. Mới đó mà gần mười lăm năm rồi! Nếu ba cháu không báo trước, chắc dì không nhận ra cháu đâu!
Bác Tám hỏi xen vào :
- Cháu dì ở ngoài quê mới vào đó hả?
- Dạ nó vào thi đại học đó, chị Tám! - Dì tôi đáp với vẻ hãnh diện.
Bác Tám chép miệng :
- Giỏi quá hén! Nhỏ xíu mà đã học tới đại học rồi!
Tôi chẳng hiểu bác Tám khen thiệt hay khen chơi. Thanh niên cỡ tuổi tôi, đứa nào mà chẳng thi đại học. Hay là tại vì bác Tám thấy tôi nhỏ con, tưởng tôi mới mười lăm tuổi. Sau này tôi mới biết bác có một đứa con gái trạc tuổi tôi nhưng mới học tới lớp mười một.
Sau khi hỏi thăm tin tức bà con ngoài quê, dì Ba giục tôi đi nghỉ :
- Cháu đi đường xa chắc mệt. Ra đằng sau tắm một cái cho mát rồi lên gác nằm nghỉ.
Tôi sực nhớ tới dượng Ba :
- Dượng đâu rồi dì?
- À, dượng đi làm ở mãi tận Gò Vấp chiều tối mới về.
Phòng tắm chỉ có cái lu sành hứng nước từ đường ống. Sau hai ngày đi đường mệt mỏi, người ngứa ngáy và đầy bụi, tôi múc nước dội ào ào một cách sảng khoái.
Khi tôi tắm xong, dì Ba dẫn tôi lên gác.
Đó là một căn gác gỗ, rộng chừng sáu, bảy mét vuông, sàn lát ván mỏng, bước mạnh một cái là nó kêu "rắc, rắc," nghe phát ớn. Nằm ngủ, trở mình cũng phải trở mình nhè nhẹ nếu không muốn gây ra tiếng động.
- Nghe tin cháu sắp vào, dì đã dọn sẵn căn gác này cho cháu. Tối cháu ngủ trên này. Buổi trưa hơi nóng, cháu có thể xuống dưới nhà nằm! - Dì tôi hướng dẫ n cặn kẽ - Học bài cháu ra đằng trước ngồi học. Bữa nay dì hơi nhức đầu nên ở nhà chứ thường ngày dì dượng đều đi làm hết, nhà không có ai, tha hồ mà học. Còn muốn học trên này thì ngồi ở đây...
Cái bàn học dì tôi vừa chỉ trông thật tức cười. Đó là một miếng gỗ rộng bản nằm song song và cao hơn mặt sàn chừng bốn tấc, có lẽ trước đây dùng làm chỗ chứa đồ đạc. Trên mặt "bàn", dì tôi đã gắn sẵn một bóng đèn nê-ông ba tấc, ý chừng để tôi học bài ban đêm.
Cũng có đôi điều cần phải nói thêm về cái bàn học này. Nó song song với mặt sàn nhưng không nằm ngay trên mặt sàn mà nằm lệch ra ngoài, phía dưới là lối đi thông nhà trước với nhà sau. Do đó khi ngồi học, nếu xếp chân lại thì không sao, còn như muốn thoải mái, đưa chân ra khỏi mép sàn, thõng xuống dưới nhà, thể nào cũng đạp trúng đầu những người đi qua đi lại. Kẹt một nỗi, tính tôi lại hay quên, lúc học bài, ngồi lâu mỏi cẳng, tôi lại thọt chân xuống dưới. Từ khi vào đại học đến lúc tốt nghiệp ra trường, thú thật là tôi đạp trúng dì dượng tôi không biết mấy trăm lần. Dì tôi la hoài mà tôi không tài nào sửa được.
Lúc dì tôi dặn dò, hướng dẫn đâu đó xong xuôi, tôi bắt đầu lôi đồ đạc ra sắp xếp. Quần áo, sách vở, tôi để một bên. Phần quà cáp ngoài quê gởi vô, tôi trao cho dì.
Thấy tôi lôi bánh trái trong túi xách ra, dì tôi trợn mắt :
- Ủa, cái gì vậy cháu?
- Dạ, các thứ này là của cậu Năm với dì Bảy...
- Không phải! Dì hỏi là hỏi cái túi của cháu kìa! Sao nó tét một đường vậy?
Từ khi vào nhà đến giờ, tôi đã cố ý che cái túi rách. Tự nhiên lúc này tôi lại quên khuấy đi mất, chìa cái bề rách về phía dì. Thế là tôi đành phải kể lại chuyện xui xẻo ở bến xe.
Dì tôi không kêu tôi "khù khờ" mà bảo :
- Cháu mới vô đây còn lạ nước lạ cái, lần sau đi đâu phải cẩn thận.
Nói xong, dì tôi cầm cái túi xuống nhà :
- Để lát tối dì nhờ dượng Ba may lại cho.
Dượng tôi làm ở trung tâm tiếp huyết bên Gò Vấp. Cơ quan cách nhà khoảng mười lăm cây số, sáng sớm năm giờ dượng đã dậy đạp xe đi làm. Nhà có honđda nhưng dượng không đi, dượng bảo đi xe đạp cho khỏe người, coi như tập thể dục buổi sáng.
Dượng tôi cũng to con như dì tôi, tính tình cũng cởi mở, thậm chí có phần dễ dãi.
Buổi chiều đi làm về, gặp tôi, dượng hỏi liền :
- Mày là thằng Chương đây hả?
Tôi gật đầu. Dượng vỗ vai tôi, bàn tay dượng nặng chịch :
- Tao nghe dì mày nhắc mày hoài! Sao, mày vô đây một mình hay đi với ai?
Khi nghe tôi nói đi một mình, dượng tôi khen :
- Đi Sài Gòn lần đầu mà dám đi một mình là chịu chơi lắm!
Tôi chẳng thấy tôi chịu chơi chút nào. Nhưng tôi không dám kể chuyện bị rạch túi cho dượng nghe.
Ăn cơm tối xong, dượng tôi lấy honđda chở tôi đi chơi, đi một vòng cho "biết Sài Gòn", như lời dượng tôi nói.
Sài Gòn ban đêm thật là lộng lẫy. Xe cộ nườm nượp, đèn điện sáng choang. Y như những thành phố nước ngoài tôi xem trong sách báo, nhất là khu Lê Lợi và chợ Bến Thành lấp lánh muôn màu. Ngồi trên xe, tôi cứ mải mê đọc hàng chữ chạy vùn vụt trên bảng tin điện trên tòa nhà đối diện với công viên Quách Thị Trang. Khi xe qua khỏi, tôi cứ tiếc hùi hụi.
Chạy hết phố hết phường, dượng tôi chở tôi về. Trước khi về nhà, hai dượng cháu ghé Ngã Sáu ăn bánh cuốn và ăn kem. Lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là bánh cuốn và kem ly. Kể từ giây phút đó, hai món "độc địa" này được tôi liệt vào danh sách những món ngon nhất thế giới.
Chương 4
Dì dượng tôi không có con. Sống với dì dượng là bé Lan Anh. Nó là cháu ruột dượng tôi, kêu dượng tôi bằng cậu. Nhưng dì dượng tôi nuôi nó từ nhỏ nên coi nó như con. Nó cũng kêu dượng tôi bằng ba và dì tôi bằng mẹ.
Lan Anh năm nay mười ba tuổi, học lớp bảy. Nó cũng gốc dân quê như tôi nhưng sống ở thành phố từ nhỏ nên rất bạo dạn và lém lỉnh.
Hôm tôi vào, Lan Anh đi chơi mất biệt bên nhà hàng xóm. Gần tối, nó mới ló mặt về nhà. Dì tôi giới thiệu tôi với nó:
- Đây là anh Chương con dì Sáu ở ngoài mình mới vô. Con lại chào anh đi!
Tôi đã chuẩn bị sẵn một nụ cười thân thiện để đáp lại chào của nó. Ai dè nó hỏi ngược lại dì tôi:
- Con của dì Sáu thì con kêu bằng em chứ sao kêu bằng anh, mẹ?
Nó làm tôi chưng hửng. Dì tôi la nó:
- Con đừng có lộn xộn! Ảnh lớn tuổi hơn, con phải kêu bằng anh!
Nó phụng phịu quay lại gật đầu chào tôi. Nó nói lí nhí gì đó trong miệng, tôi nghe không rõ. Không biết nó đang chào tôi hay đang rủa tôi. Tuy nhiên tôi vẫn mỉm cười với nó, ra vẻ một ông anh rộng lượng.
Buổi tối, sau khi đi chơi với dượng tôi về, tôi đang ngồi trên gác lúi húi xếp lại mấy cuốn sách thì Lan Anh leo lên ngồi cạnh tôi.
Tôi giả bộ không biết, cứ lặng lẽ xếp sách. Nó kêu:
- Anh Chương!
- Gì đó em?
- Anh kêu Lan Anh bằng em hả?
Thấy nó lại bắt bẻ, tôi mím môi ngồi im.
Nó ngẫm nghĩ một hồi rồi bỗng dưng níu tay tôi:
- Nếu anh vẫn kêu em bằng em thì em... kêu anh bằng anh hén?
Tự dưng nó đổi giọng ngọt ngào quá xá. Tôi khoái chí, cười khì.
Lan Anh cầm mấy cuốn sách lên:
- Em giúp anh xếp sách nghen! - Ừ, nhưng em nhớ xếp sách học một bên, sách truyện một bên, đừng để lẫn lộn!
Tôi vừa làm vừa trò chuyện với Lan Anh. Nó hỏi tôi những chuyện ngoài quê, còn tôi hỏi nó chuyện học tập. Nói qua nói lại một hồi, bỗng dưng tôi phát hiện ra tôi đang nói chuyện một mình, quay lại thấy Lan Anh ngủ mất. Nó gục đầu lên cánh tay, mặt quay về phía tôi, thở khò khò.
Sáng hôm sau, Lan Anh lại "truy" tôi:
- Anh ở ngoài quê vô, sao không có quà gì cho em hết vậy?
- Có bao nhiêu bánh trái anh gởi hết cho dì rồi. Hôm qua em cũng có ăn kia mà!
Nó không chịu:
- Bánh trái cho mẹ là khác, cho em là khác!
Tôi ấp úng:
- Nhưng anh đâu có biết em ở đây!
Thấy nó xịu mặt, tôi đâm hoảng, vội hỏi:
- Chứ anh biết làm sao bây giờ?
Nó "giải đáp" ngay:
- Chạy ra đường mua cho em mười cây kẹo dừa!
Tôi liền làm theo lời nó. Nó dặn mười cây, tôi mua tới mười lăm cây. Nó vừa nhai kẹo, vừa khen tôi:
- Anh tốt ghê!
Nói xong, nó thưởng cho tôi một cây kẹo, còn nó ăn hết mười bốn cây.
Lan Anh có cái tật ưa "chất vấn", thấy chuyện gì nó cũng thắc mắc. Tôi sống yên với nó được hai ngày, tới ngày thứ ba nó lại "gây chuyện":
- Tại sao anh giấu em?
Tôi ngơ ngác:
- Anh có giấu cái gì đâu?
Nó khịt mũi:
- Chuyện cái túi xách đó! Sao bị rạch túi mà anh không kể cho em nghe?
Hóa ra khi dượng tôi khâu lại cái túi cho tôi, nó nhìn thấy. Tôi gãi đầu:
- Chuyện đó hay ho gì mà kể.
- Hay chứ sao không! Làm sao mà anh bị rạch túi, anh kể nghe đi!
- Anh chẳng làm sao cả. Anh cũng không biết ai rạch và rạch lúc nào. Anh xuống khỏi xe, chưa kịp ngồi lên xích lô là đã thấy cái túi bị rạch rồi!
Lan Anh có vẻ thất vọng trước câu chuyện dở ẹc của tôi. Nó bình luận:
- Thật em chưa thấy ai khù khờ như anh!
Nhận xét của nó làm tôi giật mình. Hôm trước, tay xích-lô cũng bảo tôi khù khờ. Nhưng tay xích-lô thì không đáng để ý, biết đời nào tôi mớ ngồi trên chiếc xe của anh ta lần nữa. Đằng này, một con nhỏ ở sát nách mình chê mình khù khờ thì quả là đáng tủi. Tôi thở dài:
- Ừ, anh là một thằng khờ.
Thấy tôi rầu rĩ, Lan Anh động lòng thương, nó an ủi:
- Nói vậy chớ anh không khờ đâu! Khờ mà dám đi một mình ngoài quê vô đây!
Tôi chép miệng:
- Cái đó thì nói làm gì! Mẹ anh bỏ anh lên xe, xe chạy tới bến bỏ anh xuống, cũng giống như người ta chở hàng hóa vậy thôi!
- Xì! Nói vậy mà cũng nói! Thôi, tối nay hai anh em mình đi coi hát đi!
Lan Anh rủ, chắc nó muốn giúp tôi khuây khỏa.
- Ai hát mà coi? - Tôi hỏi.
- Đâu có ai hát! Đi coi hát tức là đi coi phim đó!
Tôi trề môi:
- Coi phim nói coi phim, bày đặt nói coi hát!
Lan Anh mỉm cười:
- Thì em nói vậy quen rồi! Sao, anh đi không?
Tôi phân vân:
- Dì dượng có cho đi không?
Lan Anh gật đầu:
- Em nói đi với anh là ba cho đi liền.
Tối đó, Lan Anh dẫn tôi đi coi phim ở rạp Long Vân. Rạp gần nhà nên hai anh em đi bộ. Tới nơi, ngó lên bảng quảng cáo mới hay rạp đang chiếu phim "Thằng khờ ra tỉnh"!
Tôi liếc Lan Anh, nghi nó chơi xỏ tôi. Nhưng nó cũng ngơ ngơ ngác ngác, chứng tỏ nó cũng bị bất ngờ.
Lan Anh khều tôi:
- Giờ sao anh?
- Sao là sao?
- Thôi, hai anh em mình đi ăn kem đi. Phim này dở ẹc à...
Tôi nổi máu tự ái:
- Dở cũng coi! Chẳng lẽ mình sợ "nó"?
Thế là hai anh em bước vào rạp.
Phim chiếu cảnh một anh nhà quê ra tỉnh mua máy cày, có bao nhiêu tiền bị bọn lưu manh cuỗm sạch. Không một đồng bạc lận lưng, anh ta phải đi lang thang nhặt từng mẩu bánh mì...
Tôi ngồi coi, giật mình thon thót, tưởng người ta nói mình. Phim hài, Lan Anh cố làm mặt tỉnh nhưng không được. Nó cười khúc khích làm tôi muốn điên tiết. Nhưng tôi không trách nó được.
Ra khỏi rạp, tôi nhăn mặt:
- Anh giống hệt cái anh nhà quê kia!
- Không giống đâu! - Lan Anh phản đối.
Tôi nhún vai:
- Em đừng là bộ! Anh thấy giống y chang!
- Em đã bảo không giống mà! Em nói thật đó!
Tôi thấy mừng mừng:
- Em nói thật hả?
- Ừ.
- Vậy em nói thật nữa đi! Tại sao không giống?
- Nói thật hả?
- Ừ, nói thật!
- Tại vì anh khờ hơn anh nhà quê kia nhiều!
Nói xong, Lan Anh cười hích hích. Còn tôi, tôi giận tím người, không phải giận nó mà giận mình. Nó đã nói "không giống" thế là được rồi, còn ép nó "nói thật" nữa chi không biết.
Chương 5
Một buổi trưa, tôi đang nằm ngủ mơ mơ màng màng trên chiếc đi-văng trước nhà bỗng nghe có tiếng nói chuyện thì thầm sau lưng. Chả là tôi nằm quay mặt vào vách nên khi tôi giật mình mở mắt ra cũng chẳng ai hay biết.
Đó là hai đứa con gái đang "phân tích" tôi.
Một đứa hỏi:
- Ai nằm vậy cà?
Đứa kia trả lời:
- Anh Chương đó!
- Anh Chương nào?
- Anh Chương cháu dì Ba!
- Thằng chả ở đâu mọc ra vậy?
Con nhỏ tự nhiên đổi "tông" khiến tôi suýt chút nữa giật nảy người.
Đứa kia có vẻ như đã quen với kiểu ăn nói của đứa này nên nó chẳng bắt bẻ gì, chỉ nhẹ nhàng giải thích:
- Ảnh ở ngoài quê vô thi đại học.
- Thi đại học?
- Ừ, ảnh bằng tuổi với chị mà đã thi đại học rồi!
- Sao mày biết thằng chả bằng tuổi tao?
- Mẹ nói.
Nghe tới đây, tôi đã lờ mờ đoán ra hai nhân vật này là hai chị em, con của bác Tám nhà bên cạnh.
Đứa chị có vẻ không ưa cái chuyện tôi bằng tuổi nó mà dám thi đại học. Tôi nghe nó "xì" một tiếng:
- Thằng chả thi chắc gì đã đậu!
Tôi nằm nge, giận muốn ứa gan. Mới chân ướt chân ráo vô Sài Gòn, chưa kịp thi cử gì, đã bị con nhỏ "độc miệng" trù ẻo, không nổi điên sao được! Nhưng tôi cố ép mình nằm im để... nghiên cứu tình hình.
Trước thái độ khiêu khích của bà chị, đứa em vẫn nhỏ nhẹ:
- Em không biết! Nhưng em mong cho ảnh thi đậu! Đứa chị "đốp" lại ngay:
- Thằng chả dính gì tới mày mà mày mong! Bộ mày "mết" thằng chả rồi hả?
- Chị đừng có nói bậy! - Đứa em phản ứng - Ảnh ở ngoài quê lặn lội vô đây, nếu thi rớt khăn gói trở về, thấy tội tội làm sao!
- Học dở thì thi rớt, có gì đâu mà tội! - Đứa chị vẫn nói giọng ngang phè.
Đứa em chưa kịp đáp thì có tiếng kêu:
- Trâm ơi Trâm!
Đứa em nói:
- Mẹ kêu chị kì!
Đứa chị - bây giờ tức là Trâm - chạy về nhà. Còn đứa em thì đi ra sau nhà chơi với Lan Anh.
Đợi hai "người đẹp" đi khuất, tôi nhỏm mình ngồi dậy, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Hú vía, may mà bác Tám kêu về kịp thời chứ con nhỏ Trâm kia còn ngồi lại, không biết nó "trù" tôi tới những chuyện gì.
Ngồi nghĩ tới nghĩ lui một hồi, tôi quơ cái gối, leo lên gác. Nán lại ở đây, rủi lát nữa nhỏ Trâm qua cà khịa lôi thôi, tôi nóng tiết "choảng" lại, mất mặt cả đám.
Cầu thang lên gác nằm kế cái cửa thông ra nhà sau. Vừa leo lên bậc thang, tôi vừa liếc qua cánh cửa. Ngồi cạnh Lan Anh là một con nhỏ tóc dài dễ thương hết biết. Hai đứa đang lui cui lặt rau.
Thình lình con nhỏ quay lại và bắt gặp tôi đang nhìn trộm nó. Trong khi tôi đỏ mặt tía tai, chưa biết trốn đi đâu thì nó gật đầu chào tôi và nhoẻn miệng cười. Chưa bao giờ tôi thấy một nụ cười xinh như vậy. Tim tôi đập thon-thót trong lồng ngực, hai tay bấu chặt cầu thang, bởi trong những trường hợp đột xuất như thế này người ta té gãy cổ như chơi. Khi tôi kịp định thần trở lại, tính cười đáp lễ nó thì nó đã day mặt đi chỗ khác tự đời nà. Chẳng lẽ tụt xuống chạy lại khều nó, tôi đành mím môi leo thẳng lên gác, trong bụng giận cái thói "mềm yếu" của mình kinh khủng.
Tôi giở sách ra tính đọc nhưng không tài nào đọc được. Cái nụ cười xinh xắn, thân thiện và hồn nhiên kia cứa nhảy nhót trong đầu tôi.
Lát sau, đợi con nhỏ dễ thương đó về rồi, tôi lò mò ra nhà sau, "phỏng vấn" Lan Anh:
- Nè em, cô bé khi nãy là em chị Trâm phải không?
Lan Anh thè lưỡi:
- Hay qúa ta! Sao anh biết chị Trâm tài qúa vậỷ
Nghe nó khen "tài", tôi khoái chí phỗng mũi ba hoa:
- Sao không biết! Trâm là con đầu của bác Tám chứ gì?
Lan Anh cười khi dể:
- Biết vậy mà cũng biết! Chị Trâm là thứ bạ Trên chị Trâm còn có chị Kim nữa!
Tôi trợn mắt:
- Nhà gì mà toàn con gái không vậy!
- Còn thằng Tạo nữa chi! Thằng Tạo là em út.
Tôi nuốt nước bọt:
- Thế chị kế thằng Tạo tên gì?
Tôi tính đi đường vòng ai dè Lan Anh còn tinh quái hơn tôị Nó nhăn mũi:
- Anh muốn hỏi tên chị Quỳnh thì hỏi đại cho rồi, còn bày đặt hỏi chị kế thằng Tạo!
Bị Lan Anh nói trúng ngay tim đen, tôi đành cười khì. Té ra con nhỏ đó tên Quỳnh. Người dễ thương mà tên cũng dễ thương ác!
Qua Lan Anh, tôi biết gia đình bác Tám có ba người con gái và một đứa con trai. Quỳnh, mười lăm tuổi, học lớp chín, hết hè này lên lớp mười. Chị Kim lớn hơn tôi ba tuổi, nghỉ học mấy năm any, hiện đang bán ở tiệm thuốc tây, chung chỗ với dì tôi. Thằng Tạo, tám tuổi, học lớp ba. Còn nhỏ Trâm, cùng tuổi tôi, học lớp mười một. Trâm học trễ vì bị nghỉ học mấy năm trong thời gian bác Tám trai đi tù. Sau này, hỏi dượng Ba, tôi mới biết bác Tám trai hoạt động cách mạng bị bắt, ở tù mấy năm rồi được thả ra, bây giờ làm nghề mộc kiếm sống qua ngày.
Nói chung, gia đình bác Tám sống tương đối khó khăn. Bác Tám gái đi buôn hột vịt, mỗi tuần về miền Tây một lần. Hột vịt nửa bỏ sỉ, nửa bán lẻ. Phần bán lẻ do Trâm và Quỳnh phụ trách. Hàng ngày, hai chị em đi học một buổi, một buổi đẩy xe ra chợ ngồi bán hột vịt.
Nhớ lại chuyện khi nãy, tôi hỏi Lan Anh:
- Bộ chị Trâm ghét anh lắm hả?
- Ai nói anh vậy?
- Khi nãy anh ngủ anh nghe hai chị em nói chuyện.
- Ngủ mà nghe?
- Anh ngủ mơ mơ màng màng.
Tôi không dám nói là tôi thức, nằm dỏng tai nghe trộm. Lan Anh hỏi :
- Chị Trâm nói sao?
Tôi "méc":
- Chỉ tù anh thi rớt đại học.
- Trù saỏ - Nó lại hỏi.
- Chỉ nói chắc gì anh thi đậu!
- Nói vậy mà trù!
Thấy không ăn thu, tôi "méc" thêm:
- Chỉ còn kêu anh là "thằng chả".
Lan Anh cười :
- Tính chỉ vậy đó! Ở nhà kêu chỉ là con trai! Ngó vậy chứ chỉ tốt lắm!
Tôi hừ mũi?
- "Thằng chả" mà tốt!
Lan Anh lườm tôi :
- Em méc chị Trâm cho coi!
Tôi nghinh mặt:
- Cho méc!
Tự nhiên nó reo lên:
- A, em biết rồi!
Tôi ngơ ngác:
- Biết cái gì?
- Biết anh chẳng khờ chút nào! Anh chỉ giả bộ khờ thôi!
Tôi cười hì hì. Thật ra tôi đâu có giả bộ khờ. Tôi khờ thật đấy chứ. Nhưng từ khi gặp Quỳnh, hình như đầu óc tôi sáng sủa ra được một chút.