24 giờ trong đời một người đàn bàTại ngôi nhà trọ ở Riviêra (1), nơi tôi trú ngụ lúc đó (mười năm trước chiến tranh (2), một cuộc tranh luận dữ dội đã nổ ra tại bàn chúng tôi, đe doạ trở thành một cuộc cãi lộn ác liệt, với những lời lẽ hằn học và nhục mạ. Trí tưởng tượng của nhiều người thường không sắc bén lắm. Chuyện gì không dính dáng đến mình thì có như đóng chốt vào đầu cũng không làm họ mảy may xúc động; chuyện không quan trọng lắm nhưng xảy ra trước mắt, lại nằm trong tầm cảm xúc của họ thì họ sôi lên sùng sục. Thế là trong một chừng mực nào đó, để bù lại việc chỉ quan tâm đại khái đến những sự kiện bên ngoài, họ trở nên hùng hổ một cách vô lối và quá đáng.
Lần đó thì đúng như vậy, giữa những thực khách hoàn toàn là trưởng giả, ăn cùng một bàn, sau bữa cơm thường nói với nhau những câu chuyện phiếm (3) và những lời bông đùa nhẹ nhàng không sâu sắc, thông thường thì họ tản đi ngay: cặp vợ chồng người Đức thì dạo chơi và chụp ảnh, ông người Đan Mạch béo tròn, tiêu khiển bằng thú đi câu tẻ nhạt, bà mệnh phụ người Anh thanh lịch trở về với sách của bà, đôi vợ chồng người Ý rông đi Môngtơ Caclô chơi, còn tôi thì nhàn tản trên chiếc ghế ngoài vườn hoặc làm việc. Nhưng lần này chúng tôi đeo dính lấy nhau tranh cãi dai dẳng và nếu có ai trong chúng tôi bỗng đứng phắt dậy thì không phải để cáo lui một cách lễ độ như thường lệ, mà là trong cơn bực bội, nóng nảy đầy vẻ cáu kỉnh như tôi đã kể.
Thật ra, sự kiện khuấy động đến mức đó, những người ăn cùng bàn với nhau, kể cũng khá kì cục. Căn nhà trọ, nơi bảy chúng tôi ở, một biệt thự riêng biệt, vẻ ngoài thật đẹp (phong cảnh nhìn từ của sổ ra bờ biển, mép đá lô nhô, quả là tuyệt vời), đúng ra chỉ là một nhà phụ, rẻ tiền hơn, của đại khách sạn Palát, chỉ có cái vườn ngăn cách, nên lúc nào chúng tôi cũng có thể quan hệ được với những khách trọ trên Palát. Ngày hôm trước, tại khách sạn, đã xảy ra một vụ tai tiếng về đủ mọi mặt.
Số là, trong chuyến tàu trưa, đúng ra là mười hai giờ hai mươi phút (tôi phải chỉ giờ thật chính xác vì điều này quan trọng đối với việc đang xảy ra lẫn câu chuyện làm chúng tôi phải bàn cãi sôi nổi), một thanh niên người Pháp đã tới khách sạn và thuê một căn phòng trông ra biển: chỉ điều đó cũng cho thấy là chàng ta dư dả. Chàng được mọi người thích thú chú ý tới không chỉ ở phong độ thanh lịch kín đáo mà chính là ở vẻ đẹp cao quý, thật dễ thương; trên khuôn mặt nhỏ nhắn như thiếu nữ, là một bộ râu vàng óng như tơ, mượt mà trên môi, nồng nàn gợi cảm; trên vầng trán rất trắng là những gợn tóc nâu xoăn bồng bềnh; cái nhìn dịu dàng của chàng như mơn trớn, tất cả ở chàng tạo ra một vẻ êm êm đẹp đẽ, đáng yêu nhưng không có gì là giả tạo, điệu bộ. Nói cho đúng, thoạt tiên, trông chàng từ xa những ta thoáng nhớ tới những bộ mặt bằng sáp màu hồng, dáng điệu kiểu cách, tay cầm chiếc can lịch sự, tượng trưng cho cái đẹp của nam giới, được bày tại tủ kính các tiệm lớn, bán quần áo thời trang. Nhưng càng nhìn gần thì mọi cảm giác hợm hĩnh đều biến mất vì ở chàng, vẻ nhã nhặn là tự nhiên như thuộc bản chất con người (điều này thật hiếm). Đến đâu, chàng cũng khiêm tốn, thân mật chào tất cả mọi người và thật thích thú khi nhận thấy ở hoàn cảnh nào, sự ân cần của chàng cũng bộc lộ hoàn toàn thoải mái. 2Một phu nhân đi ra nơi giữ quần áo, chàng sốt sắng đến lấy áo choàng giúp; với mỗi đứa trẻ, chàng đều có một ánh mắt thân mật, một lời nói vui: chàng vừa cởi mở lại vừa tế nhị; tóm lại, hình như chàng là một trong những con người được ưu đãi; và do đức tính làm vui lòng mọi người bằng bộ mặt tươi cười và vẻ duyên dáng trẻ trung nên chàng lại có một nét tao nhã mới. Sự hiện hữu của chàng có vẻ như một ân huệ đối với khách trọ tại Palát, phần đông đều có tuổi và sức khoẻ kém; do dáng điệu hùng dũng của tuổi thanh niên, do bộ điệu nhanh nhẹn hoạt bát, do vẻ tươi tỉnh trong bản chất dễ thương làm một số người có cái vẻ uy nghi, chàng dễ dàng giành được tình cảm của mọi người. Hai giờ sau khi tới, chàng đã chơi quần vợt với hai cô con gái nhà kĩ nghệ béo mập và giàu sụ ở thành phố Lyông (4) là Annét, mười hai tuổi, và Blăngsơ, mười sáu tuổi. Mẹ hai cô gái, bà Hăngriet, mảnh mai, dịu hiền và rất kín đáo, khẽ mỉm cười trông hai cô gái nhỏ, còn thật ngây thơ, làm dáng làm điệu một cách vô thức với chàng trai ngoại quốc. Buổi chiều, chàng vừa chơi cờ vua giải trí với chúng tôi, vừa kể vài giai thoại vui vui một cách tế nhị, chàng dạo chơi nhiều lần khá lâu trên sân với bà Hăngriet; chồng bà này, như thường lệ, chơi đôminô với một ông bạn kinh doanh; tôi còn thấy chàng chuyện trò rất muộn với vẻ mật thiết đáng ngờ, trong bóng tối của phòng giấy với cô thư kí của khách sạn.
Hôm sau, chàng theo ông bạn Đan Mạch của tôi đi câu cá và tỏ ra có những hiểu biết phi thường về môn này; sau đó chàng bàn luận về chính trị rất lâu với nhà kĩ nghệ ở Lyông; và chàng cũng tỏ ra là người nói chuyện có duyên vì người ta nghe thấy tiếng cười của ông mập át cả tiếng sóng. Sau bữa trưa, (để hiểu rỏ tình hình, tôi phải kể thật chính xác từng giai đoạn thời gian biểu của chàng) chàng đã cùng bà Hăngriet, chỉ có hai người, uống cà-phê ở ngoài vườn; chàng lại chơi quần vợt với các con gái của bà, rồi chuyện trò với hai vợ chồng người Đức ở phòng lớn. Hồi sáu giờ, khi đi bỏ thư, tôi gặp chàng ở ga. Chàng vội đến gần tôi, kể là chàng buộc phải cáo lỗi vì bị gọi về gấp nhưng sau hai ngày, chàng sẽ trở lại đây.
Thật vậy, chiều hôm đó, chàng không có mặt ở phòng ăn, nhưng có thiếu chăng chỉ là thiếu sự hiện diện của con người đó, vì ở tất cả mọi bàn, người ta chỉ nói về chàng, ca ngợi tính tình dễ thương và vui vẻ của chàng.
Ban đêm, tôi đang ngồi trong phòng, đọc cho xong một cuốn sách, lúc đó có lẽ đã mười một giờ, bỗng, qua cửa sổ mở, tôi nghe thấy những tiếng kêu, những tiếng gọi lo âu ở ngoài vườn; rõ ràng, bên khách sạn, có một sự náo động khác thường. Vì lo lắng hơn là vì tò mò, tôi xuống ngay năm mươi bậc thang; ở dưới, tôi thấy khách trọ và nhân viên khách sạn đang trong tình trạng hỗn độn và náo động. Bà Hăngriet sau khi đi dạo trên sân dọc bờ biển như các buổi chiều, đã không trở về, trong lúc ông chồng thì như thường lệ, vẫn chơi đôminô với ông bạn ở Namuya (5), mọi người lo là có tai nạn. Giống như một con bò rừng, con người ở thành phố Lyông, vốn nặng nề, mập mạp, lao dọc theo phía bờ biển và trong đêm tối, tiếng gào: “Hăngriet! Hăngriet!” của ông ta, do xúc cảm mà giọng lạc đi, âm thanh đó gợi lên một cảm giác rùng rợn như tiếng gầm rống của một con thú khổng lồ thời nguyên thuỷ, trước giờ chết. Nhân viên khách sạn, bồi phòng chạy đi chạy lại tấp nập, lên xuống thang gác, người ta đánh thức khách trọ, gọi điện đến sở cảnh sát. Nhưng giữa cảnh ồn ào đó, con người to lớn ấy áo gi-lê cởi phanh cứ đi qua lại, lảo đảo bước những bước dài, ông thổn thức kêu to trong đêm, một cách điên dại, chỉ một cái tên: “Hăngriet! Hăngriet!”. Ngay lúc ấy, những đứa nhỏ ở trên lầu, đã thức dậy và trong bộ quần áo ngủ, chúng đứng bên cửa sổ gọi mẹ, còn người cha chạy tới cho chúng yên lòng.
Rồi bỗng xảy ra một điều thật hãi hùng, không sao kể lại được vì tạo vật, khi bị căng mạnh trong những cơn khủng hoảng đặc biệt, thường làm cho thái độ của người ta có một vẻ bi thảm lạ thường, không một hình ảnh, lời lẽ nào có thể diễn tả nổi, kể cả cái sức mạnh sấm sét ở trong nó. Bỗng nhiên, con người nặng nề, to lớn bước xuống các bậc thang rin rít với bộ mặt đã thay đổi hẳn, đầy vẻ mệt mỏi, nhưng dữ tợn, ông ta cầm một lá thư trong tay: “Gọi tất cả mọi người về đi!”.
Ông ta nói với người quản lí bằng một giọng vừa đủ nghe: “Gọi tất cả mọi người về, không cần tìm nữa, vợ tôi đã bỏ tôi rồi”.
Trước những kẻ đứng xúm quanh ông, tò mò nhìn ông bỗng nhiên ngượng ngùng, bẽn lẽn và hãi hùng giãn ra, con người bị đánh đến tử thương này có một dáng điệu căng thẳng phi thường. Ông ta còn đủ sức bước lảo đảo qua mặt chúng tôi, không nhìn ai, để đi tắt đèn trong phòng đọc sách. Người ta nghe tiếng tấm thân nặng nề, đồ sộ của ông gieo phịch xuống một chiếc ghế phô tơi, rồi một tiếng nấc man rợ, thú vật chỉ có ở những người chưa từng khóc bao giờ. Nỗi đau khổ thông thường ấy, gợi lên trong mỗi chúng tôi, ngay cả với người vô tình nhất, một tác động lạ kì. Không người bồi bàn nào của khách sạn, không một khách trọ nào, tò mò tới xem, dám hé môi cười, hoặc thốt ra một lời thương cảm. Câm nín, mỗi người chúng tôi, như cảm thấy hổ thẹn vì để bộc lộ tình cảm mình một cách sôi sục, lặng lẽ trở về phòng. Khi chỉ còn một mình trong căn phòng tối tăm, cái sản phẩm của nhân loại bị vùi dập này đã thoi thóp, nức nở, quá cô đơn với chính mình, tại ngôi nhà mà ánh đèn đang tắt dần, chỉ còn lại những tiếng rì rào, những tiếng thì thầm, những tiếng động yếu ớt cứ tàn lụi dần.
Người ta phải thấy rằng một sự kiện như sét đánh ấy, diễn ra trọn vẹn trước mắt chúng tôi, đã gây xúc động mạnh đến những người quen với buồn chán và những trò giải trí vô tư. Nhưng cuộc tranh luận nổ ra sau đó tại bàn chúng tôi lại kịch liệt và suýt biến thành ẩu đả; dù cho nó bắt nguồn từ sự việc lạ lùng này, bản thân nó chỉ là những vấn đề những nguyên tắc đối chọi nhau, những quan điểm khác nhau về cuộc đời chống lại nhau một cách gay gắt. Thật vậy, do một cô hầu gái thóc mách đã đọc được bức thư (ông chồng gục xuống trong cơn phẫn nộ bất lực, đã vò nát và quẳng bức thư xuống sàn nhà) người ta sớm biết rằng bà Hăngriet bỏ đi không phải một mình mà với chàng trai người Pháp (cảm tình của nhiều người đối với chàng từ lúc đó, đã mất đi rất nhanh). Thoạt tiên, người ta thấy ngay là cái bà Bôvary (6) nhỏ nhắn này đã đổi ông chồng béo ị, dân tỉnh lẻ lấy một chàng trai trẻ, thanh lịch, đẹp đẽ. Nhưng điều làm mọi người ngạc nhiên nữa là trong đó từ nhà kĩ nghệ, các con gái của ông đến cả bà Hăngriet đều chưa bao giờ gặp chàng Lôvơlêxơ (7) này; và như vậy là một cuộc trò chuyện ban đêm dài hơn hai giờ trên sân thượng, và một giờ uống cà-phê với nhau ở ngoài vườn đã đủ để xô đẩy một người đàn bà mẫu mực, chừng ba mươi tuổi, bỏ chồng và hai con gái để đi trong đêm, phiêu lưu theo một chàng trai thanh lịch, trước đó hoàn toàn xa lạ với bà.
Những người ăn cùng bàn với chúng tôi đều đồng tình rằng, sự việc, bề ngoài rõ ràng, thật ra chỉ là một sự lừa dối xảo trá và thủ đoạn quỷ quyệt của cặp tình nhân; chắc chắn bà Hăngriet đã có những quan hệ bí mật từ rất lâu với chàng trai này và gã đi “mò gái” đến đây chỉ quyết định những chi tiết cuối cùng của cuộc đào tẩu này, vì – người ta suy luận như vậy – hoàn toàn không thể có chuyện một người đàn bà nết na, chỉ sau hai giờ quen biết đã chuồn theo trai ngay khi nghe tiếng huýt sáo gọi đầu tiên. Ở đây, tôi thích có ý kiến khác; tôi kiên quyết bảo vệ rằng, một người đàn bà lấy chồng, qua nhiều năm chung sống với chồng, chỉ thấy thất vọng và buồn tẻ, cuộc chung sống như vậy đã ngấm ngầm chuẩn bị nội tâm người đàn bà đó trở thành cái mồi cho bất cứ người đàn ông táo bạo nào; điều như vậy không những có thể xảy ra mà chắc chắn là có nữa. Do sự phản đối bất ngờ của tôi, cuộc tranh luận đã mau chóng được tất cả bàn cãi, và điều nó trở nên sôi nổi là cả hai cặp vợ chồng người Đức lẫn Ý đều tỏ vẻ khinh miệt rất kênh kiệu, không chịu chấp nhận sự hiện hữu của tiếng sét ái tình, họ cho đó là một điều điên rồ và một sự tưởng tượng lãng mạn vô duyên.
Tóm lại, nhắc đi nhắc lại mãi những chi tiết của một cuộc cãi vả sôi nổi kéo dài từ đầu giờ dần đến cuối giờ dậu (8) chẳng ích lợi gì; chỉ những khách chuyên được mời ăn tiệc (9) nói chuyện mới sắc sảo, còn những luận điệu mà những người ngồi cùng bàn, khi ăn, ngẫu nhiên viện ra để tranh cãi giữa bầu không khí hăng say, thường chẳng có gì đặc sắc, có thể nói là vơ quàng vơ xiên nữa. Cũng khó có thể cắt nghĩa tại sao chúng tôi lại dễ xúc phạm nhau đến như vậy trong lúc tranh luận; tôi cho rằng hai ông chồng bực tức vì họ chỉ viện lẽ chính các bà vợ của họ không thể bị cám dỗ và sa ngã đến thế.
Đáng buồn là họ không có cái gì hay hơn để phản đối tôi và nói rằng chỉ ai phán xét tâm hồn phụ nữ căn cứ vào những cuộc chinh phục bất thần và dễ dãi của kẻ độc thân mới nói vậy. Điều đó bắt đầu làm tôi khó chịu và khi bà người Đức cho thêm thứ gia vị nghiêm chỉnh vào bài học này, nói rằng có những người phụ nữ đoan trang, lại có cả những đồ “đĩ thoã” và theo bà ta, bà Hăngriet phải thuộc loại này, tôi hoàn toàn mất hết bình tĩnh. Đến lượt tôi, tôi tấn công lại. Tôi tuyên bố rằng, không thừa nhận sự việc này, chứng tỏ, một người đàn bà, nhiều lúc trong đời mình, có thể bị phó mặc cho những uy lực thần bí mạnh hơn cả ý chí của họ, rằng trí thông minh của họ chỉ che giấu nỗi lo sợ chính bản năng của con người, nỗi lo sợ cái bản tính tin thờ ma quỷ trong con người ta. Và nhiều người thích cho là mình rắn rỏi hơn, trong sạch hơn những kẻ “dễ bị chinh phục”.
Về phần tôi, tôi cho rằng một người đàn bà xử sự một cách tự do và đắm đuối, theo bản năng của mình còn thành thật hơn những người vẫn phản bội chồng ngay khi còn nằm trong tay chồng, mắt nhắm nghiền, như ta thường thấy. Đại khái, tôi nói như vậy; và khi cuộc đấu khẩu trở nên nảy lửa, mọi người càng công kích bà Hăngriet tội nghiệp kia, tôi càng say sưa bênh vực bà ta (thật ra, trong thâm tâm, tôi cũng thấy là tôi đã đi quá xa!). Sự nồng nhiệt ấy như khiêu khích hai cặp vợ chồng kia; và thành bộ tứ không hài hoà lắm, họ nhào vào tôi kịch liệt đến nỗi ông già Đan Mạch, vẻ hào hứng, tay cầm đồng hồ bấm giờ, như trọng tài một trận đá banh, thỉnh thoảng phải gõ những ngón tay xương xẩu xuống bàn, ra vẻ cảnh cáo và nói: “Xin các vị, hãy bình tĩnh nào!” (10)
Nhưng làm như vậy cũng chỉ có tác dụng chốc lát. Đã ba lần, một đối thủ của tôi hùng hổ chồm lên và bà vợ ông ta vất vả lắm mới làm ông ta bớt nóng, tóm lại chỉ chừng mười phút nữa, là cuộc tranh luận giữa chúng tôi có thể kết thúc bằng đấm đá nhau nếu, bỗng nhiên bỗng nhiên bà C…, bà mệnh phụ già người Anh, tóc bạc trắng, đầy vẻ sang trọng, mặc nhiên đã trở thành người chủ toạ danh dự của bàn chúng tôi mà không phải bầu. Đối với ai, bà cũng tỏ ra nhã nhặn, bà ngồi thẳng trên ghế, nói ít nhưng đã nói thì cực kì thú vị và dễ nghe; chỉ nhìn vẻ ngoài của bà cũng thấy dịu dàng; ở con người quý phái, kín đáo này, toả ra một vẻ điềm đạm, thư thái tuyệt vời. Bà giữ một khoảng cách nhất định đối với tất cả; đối với từng người, bà lại có sự chú ý riêng biệt một cách tế nhị; bà thường hay ngồi ở ngoài vườn với sách vở; đôi lúc bà chơi dương cầm và rất ít khi người ta thấy bà ở giữa một đám đông hay bị cuốn hút vào một cuộc nói chuyện ồn ào. Người ta ít chú ý đến bà nhưng đối với chúng tôi, bà có một uy quyền khác lạ. Bởi vì, khi bà can thiệp lần đầu tiên vào câu chuyện của chúng tôi, tất cả chúng tôi có cái cảm giác nặng nề là đã quá lớn tiếng và không tự kiềm chế được bản thân mình.
Bà C… đã tranh thủ phút tạm ngưng bực tức khi ông người Đức chồm khỏi ghế, bị nhẹ nhàng kéo về chỗ cũ. Bà bất chợt ngước đôi mắt nâu và sáng, do dự nhìn tôi một lát để sau đó tự đặt vấn đề với sự chính xác của một nhà chuyên môn.
- Nếu tôi hiểu đúng ý ông, thì ông nghĩ rằng bà Hăngriet… rằng một người đàn bà, dù không muốn, cũng không có thể bị xô đẩy vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ? Ông nghĩ rằng có những hành động mà một người đàn bà như vậy cho là không thể nào tới với họ một giờ trước đó và bà ta không phải chịu trách nhiệm về hành động ấy.
- Thưa bà tôi đã nghĩ đúng như vậy.
- Vậy thì mọi sự phán xét về đạo đức sẽ hoàn toàn không có giá trị, mọi vi phạm những quy luật về luân lí sẽ được bảo vệ. Nếu ông thật sự chấp nhận, coi án mạng vì tình không phải là tội phạm như người Pháp vẫn nói, thì duy trì toà án để làm gì? Cũng không cần nhiều thiện chí lắm (mà ông thì có quá nhiều thiện chí, bà mỉm cười nói thêm) để tìm thấy trong mỗi vụ trọng tội, một sự đam mê đó, tìm ra một lời biện bạch.
Giọng nói trong trẻo, hơi vui vẻ của những lời nói đã làm tôi thấy ấm lòng lạ thường; tự nhiên bắt chước thái độ khách quan của bà, tôi nửa đùa, nửa nghiêm trả lời:
- Chắc chắn là toà án sẽ nghiêm khắc hơn tôi về những vấn đề này; họ có sứ mệnh phải bảo vệ đến cùng những phong tục và các điều quy ước chung; điều đó buộc họ phải kết án thay vì tha lỗi. Nhưng tôi, một người bình thường, tôi không hiểu tại sao tôi lại phải tự đảm nhận vai trò công tố viên. Tôi muốn làm người chuyên đi bảo vệ hơn. Bản thân tôi, tôi thích hiểu con người hơn xét xử họ.
Bà C… nhìn thẳng vào tôi một lát bằng cặp mắt sáng và nâu, rồi bà ngập ngừng. Tôi sợ bà không hiểu rõ tôi và tôi định nhắc lại bằng tiếng Anh điều tôi đã nói. Nhưng với vẻ nghiêm nghị đặc biệt và như trong một kì sát hạch, bà tiếp tục hỏi:
- Thế ông không thấy rằng, một người đàn bà, bỏ cả chồng con để đi theo một kẻ nào đó, chưa biết có xứng đáng với tình yêu của mình không, là đáng khinh và bỉ ổi ư? Ông có thể tha thứ một hành vi liều lĩnh và nhẹ dạ đến thế của một người đàn bà không còn trẻ nữa, lẽ ra bà ta phải biết học cách tự trọng lấy mình, dù chỉ vì các con?
- Thưa bà, tôi xin nhắc lại - tôi khăng khăng - là tôi từ chối không có một sự phán xét hay lên án ở trường hợp này. Nhưng trước mặt bà, tôi có thể bình thản thừa nhận rằng lúc nãy, tôi có hơi nói quá. Cái bà Hăngriet tội nghiệp kia, chắc chắn không phải là một nữ anh hùng; bà ta không có cả bản chất một con ngưòi phiêu lãng, bà ta còn kém một người đa tình nồng nhiệt. Theo tôi hiểu về bà ấy, bà ta chỉ là một người đàn bà yếu đuối, bình thường, mà tôi có đôi chút kính nể vì bà ta đã can đảm làm theo ý muốn của mình, nhưng tôi còn thương xót bà ta hơn vì ngày mai, nếu không phải là đã xảy ra hôm nay rồi, bà ta sẽ đau khổ một cách sâu sắc. Có thể bà ta đã hành động ngốc nghếch, dù sao bà ấy cũng quá hấp tấp nhưng tư cách của bà không có gì là hèn hạ, thấp kém và trước sau, tôi cũng không cho ai được quyền khinh rẻ người đàn bà đáng thương và đau khổ này.
- Thế ông, ông còn có đủ sự kính nể, lòng tôn trọng đối với bà ấy không? Ông có phân biệt người đàn bà nết na mới hôm trước ông còn gặp, với người hôm qua đã đi theo một gã đàn ông hoàn toàn xa lạ không?
- Thưa không, tôi không có chút phân biệt nào dù là nhỏ nhất.
- Thật vậy sao? (11) 4Tự nhiên, bà nói bằng tiếng Anh, cuộc nói chuyện làm bà có vẻ thú vị lạ thường. Sau một giây lát suy nghĩ, cái nhìn trong sáng của bà lại nhằm vào tôi.
- Nếu ngày mai, ông gặp bà Hăngriet ở Nixơ (12) chẳng hạn, khoác tay với chàng trai ấy, ông có chào bà ta không?
- Tất nhiên là có chứ.
- Ông có nói chuyện với bà ấy không?
- Tất nhiên là có!
- Nếu ông… nếu ông có vợ, ông có giới thiệu vợ ông với người đàn bà ấy, như không có gì xảy ra không?
- Tất nhiên là có.
- Ông sẽ làm như vậy thật ư? (13) – Bà lại nói với vẻ ngạc nhiên, hồ nghi và sửng sốt.
- Nhất định tôi sẽ làm như vậy? (14) – Tôi đáp lại bằng tiếng Anh mà không để ý thấy nữa.
Bà C… nín lặng. Bà vẫn chìm lắng trong suy nghĩ và đột nhiên nhìn vào tôi, bà nói, như ngạc nhiên về sự dũng cảm của chính mình:
- Tôi không biết tôi có làm như vậy không? Có lẽ tôi cũng phải làm như vậy. (15)
Và với vẻ tự tin không sao mô tả nổi, mà chỉ người Anh mới biết dùng để chấm dứt cuộc nói chuyện một cách dứt khoát nhưng không đột ngột, thô lỗ, bà đứng dậy, thân mật chìa tay ra cho tôi. Nhờ có bà can thiệp, yên tĩnh đã trở lại, về phần chúng tôi, chúng tôi thầm biết ơn bà, vì dù còn là đối thủ của nhau, chúng tôi vẫn có thể chia tay nhau có lễ độ và không khí căng thẳng nguy hiểm cũng tan dần sau vài lời bông lơn vớ vẩn.
Mặc dù cuộc tranh cãi chấm dứt một cách lịch sự, giữa những địch thủ và tôi vẫn còn một chút lạnh nhạt do chỗ điều qua tiếng lại hằn học và sôi nổi. Cặp vợ chồng người Đức tỏ ra dè dặt, còn ông người Ý, những ngày sau đó, cứ luôn hỏi tôi với vẻ giễu cợt, xem tôi có tin tức gì về “cái bà Hăngriet không?” (16). Dù cho chúng tôi có giữ lễ độ đến chừng nào, đã có sự đổ vỡ không sao cứu vãn nổi trong quan hệ trung thực và thẳng thắn giữa chúng tôi. Vẻ lạnh lùng châm biếm của các đổi thủ cũ của tôi, lại càng nổi bật hơn sự nhã nhặn thật đặc biệt mà bà C… dành cho tôi sau cuộc tranh cãi đó. Bình thường bà ta cực kì dè dặt và ngoài bữa ăn, hầu như không bao giờ bà nói chuyện với những người ngồi cùng bàn, bây giờ, bà nhiều lần tìm cơ hội để trò chuyện với tôi, ở ngoài vườn; có thể nói bà đã tôn tôi lên bằng cách tách riêng tôi ra, bởi vì dáng điệu dè dặt, quý phái của bà làm cho cuộc nói chuyện riêng có tính chất như một đặc ân. Thật ra, tôi phải nói là bà đã tìm đến tôi, bà không bỏ qua cơ hội nào để bắt chuyện với tôi, điều đó rõ ràng đến nỗi, nếu đấy không phải là một bà già tóc bạc trắng, tôi có thể có những ý nghĩ kiêu căng và kì cục. Nhưng mỗi lần nói chuyện như vậy, câu chuyện của chúng tôi, không sao tránh khỏi là trở lại từ đầu, về bà Hăngriet. Bà C… có vẻ ngấm ngầm khoái trá buộc tội người đàn bà đã quên bổn phận của mình, là không đứng đắn, là vô luân. Nhưng đồng thời bà cũng có vẻ vui vì tôi, trước sau như một, vẫn dành cảm tình cho người đàn bà mảnh mai và dịu dàng đó, và không gì có thể làm tôi chối bỏ tình cảm ấy. Bà luôn lái câu chuyện về cái hướng đó. Cuối cùng, tôi không biết nghĩ ra sao về sự cố tình lạ lùng và hơi bệnh hoạn ấy.
Tình hình đó kéo dài độ năm hay sáu ngày, không có một lời nào của bà để lộ lý do cho thấy đề tài câu chuyện ấy quan trọng với bà đến như vậy. Nhưng rồi tôi cũng thấy rõ điều quan trọng đó, trong một cuộc đi dạo, khi tôi vô tình nói với bà rằng thời gian ở lại đây của tôi đã sắp chấm dứt và tôi dự tính sẽ rời khỏi đây vào ngày mốt. Thế là mặt bà, thường vẫn bình thản, bỗng có một vẻ căng thẳng khác lạ, như một bóng mây đi ngang qua cặp mắt nâu của bà:
- Đáng tiếc thật! Tôi còn biết bao nhiêu điều muốn bàn luận với ông, – bà nói.
Từ lúc đó, một vẻ bối rối, một vẻ xao xuyến cho thấy rằng, miệng nói, nhưng bà nghĩ tới một điều gì đã làm bà bận tâm nhiều, làm bà xao lãng trong câu chuyện với tôi. Rồi tình trạng lơ đãng cũng làm bà ngượng ngùng, vì sau một lát đột ngột lặng thinh, bà bất chợt đưa tay cho tôi và nói:
- Tôi thấy tôi không thể trình bày rõ ràng điều tôi định nói với ông. Tôi muốn viết cho ông hơn.
Rồi bà rảo bước nhanh hơn thường lệ, về phía khách sạn.
Quả nhiên, trước bữa ăn chiều một chút, tôi thấy trong phòng tôi, một lá thư viết bằng một thứ chữ rắn rỏi, và rõ ràng. Đáng buồn là tôi hay lơ là với những thư từ nhận được trong thời thanh niên, nên tôi không sao chép lại được nguyên văn lá thư đó, – tôi chỉ có thể ghi lại đại khái nội dung của nó – trong thư bà hỏi tôi xem tôi có cho phép bà kể cho tôi nghe một đoạn đời của bà.
Bà viết, sự kiện ấy lâu đến nỗi nó không còn thuộc về cuộc sống hiện tại của bà và do ngày mốt, tôi đã đi rồi, bà thấy dễ dàng nói về một việc đã hai mươi năm nay cứ luôn làm bà phải bận tâm và cắn rứt bà. Cho nên nếu một cuộc nói chuyện như vậy không làm phiền tôi, bà mong tôi đến tìm bà vào một giờ bà định.
Bức thư đó, tôi chỉ nói sơ qua nội dung, hấp dẫn lạ thường; riêng việc bà viết bằng tiếng Anh, đã cho thấy nó rất rõ ràng và đầy quả quyết. Tuy nhiên tôi trả lời cũng không dễ dàng, và tôi đã xé ba tờ nháp mới đạt tới hình thức cuối cùng.
“Tôi coi việc bà tin tôi đến như vậy là một vinh dự cho tôi và tôi xin hứa sẽ đáp lại một cách thành thật trường hợp bà yêu cầu tôi. Tất nhiên tôi xin bà hãy chỉ nói những điểm bà muốn bộc lộ với tôi, đúng với sự thật hoàn toàn. Tôi xin thưa với bà, tôi coi sự tin cậy của bà là một điều quý trọng đặc biệt”.
Ngay buổi chiều, lá thư nhỏ của tôi đã ở bên phòng bà và sáng hôm sau, tôi nhận được câu trả lời:
“Ông nói rất có lý: sự thật nửa vời không có giá trị gì bao giờ cũng là một sự thật hoàn toàn. Tôi sẽ cố nghiền ngẫm hết sức để không giấu giếm chút gì với bản thân tôi và với ông. Sau bữa ăn, ông hãy đến phòng tôi (với tuổi sáu mươi bảy, tôi không sợ bị hiểu lầm), vì ở ngoài vườn hay nơi nào có người, tôi không thể nào nói được. Ông hãy tin là tôi quyết định không phải dễ đâu”.
Chiều ngày đó, chúng tôi gặp nhau tại bàn và đã trò chuyện vui vẻ với nhau về những chuyện khác. Nhưng, ở ngoài vườn, bà đã tránh gặp tôi, với vẻ lúng túng rõ ràng; tôi vừa ái ngại vừa cảm động khi thấy bà già tóc bạc trắng này lướt vội dọc lối đi có trồng thông, e lệ như một thiếu nữ.
Buổi chiều, đúng giờ hẹn, tôi gõ cửa phòng bà, cửa mở ngay tức khắc. Gian phòng chìm trong bóng hoàng hôn, mờ mờ, chỉ có một cây đèn nhỏ đặt trên bàn, toả ra một chùm ánh sáng vàng. Bà C… mời tôi tới chiếc ghế phôtơi và không chút lúng túng, bà ngồi trước mặt tôi; tôi thấy mỗi cử chỉ của bà đều có tính toán; nhưng có một phút im lặng, rõ ràng là không định trước – phút im lặng trước một quyết định khó khăn, phút im lặng kéo dài rất lâu, và tôi không dám lên tiếng, sợ phá vỡ nó vì tôi cảm thấy lúc này đây, một ý chí mạnh mẽ đang đấu tranh kiên cường chống một sức đề kháng cũng mạnh mẽ. Tại phòng khách ở tầng dưới, thỉnh thoảng lại vọng lên, những âm thanh yếu ớt, rời rạc của bản luân vũ, tôi lắng nghe, tập trung đến căng thẳng để sự im lặng đó bớt nặng nề. Bà ta như cũng thấy khó chịu với sự yên tĩnh nhọc nhằn, trái với tự nhiên này, vì bỗng nhiên bà thu mình lại như để lao tới và bà bắt đầu:
- Chỉ câu đầu tiên là khó khăn. Đã hai hôm nay, tôi chuẩn bị để cho thật rõ ràng và chân thật; tôi hi vọng sẽ đạt được kết quả. Có lẽ ông chưa hiểu được vì sao tôi lại kể tất cả chuyện này cho ông là người xa lạ đối với tôi; nhưng không một ngày nào, không một giờ nào, tôi lại không nghĩ đến việc này; xin ông hãy tin ở tôi, một bà già, khi tôi nói với ông rằng việc cứ phải chăm chú suốt đời chỉ nhìn vào một điểm, vào một ngày của đời mình, thật không sao chịu nổi. Vì tất cả những điều tôi sắp kể với ông chỉ chiếm thời gian hai mươi bốn giờ trong sáu mươi bảy năm, và tôi thường tự nhủ đến phát điên lên là: “Nếu trong khoảng thời gian dài đó, người ta có một lúc cuồng dại, chỉ một lần thôi, thì đã sao!”. Nhưng người ta không thể gạt bỏ cái mà chúng ta gọi bằng một từ ngữ rất mơ hồ là lương tâm; khi tôi nghe ông cân nhắc trường hợp Hăngriet một cách khách quan như vậy, tôi nghĩ rằng cái lối cứ luôn nhìn về dĩ vãng rồi không ngừng buộc tội mình, là vô lí, nó sẽ chấm dứt nếu tôi được nói chuyện thoải mái với một người khác về cái ngày duy nhất trong đời mình. Nếu tôi theo đạo Thiên Chúa thay vì theo đạo Anglican (17), việc xưng tội đã từ lâu tạo cơ hội chuộc lại điều bí mật của tôi; nhưng điều an ủi đó tôi cũng không có được, cho nên hôm nay tôi thử làm cái việc kì quặc là tự giải tội cho mình bằng cách coi ông là người tâm phúc. Tôi hiểu rằng tất cả những cái đó thật lạ lùng, nhưng ông đã chấp nhận không do dự đề nghị của tôi và tôi xin cảm ơn ông.
Như tôi đã nói với ông, tôi chỉ đơn giản kể cho ông nghe một ngày trong cuộc đời tôi thôi; ngoài cái đó ra, không có gì là quan trọng mà còn nhàm chán đối với người khác, không phải là tôi. Cuộc đời tôi cho đến năm tôi bốn mươi hai tuổi hoàn toàn bình thường. Cha mẹ tôi là những nhà quý tộc giàu có, nhiều ruộng đất ở Êcốt (18). Cha mẹ tôi có những nhà máy lớn và những trang trại lớn; chúng tôi sống lối sống của giới quý tộc địa phương – gần suốt năm, trên đất đai của mình, và ở London, trong Mùa ăn chơi (19). Năm mười tám tuổi, tôi quen chồng tôi trong một cuộc giao tế; anh là con thứ hai của gia đình ông R… vốn có tiếng tăm và anh đã phục vụ mười năm ở Ấn Độ. Chúng tôi lấy ngay và sống cuộc đời vô tư của giai cấp chúng tôi: ba tháng ở Lơnđơn, ba tháng tại đất đai của chúng tôi; thời gian còn lại là từ khách sạn này đến khách sạn khác ở Ý, Tây Ban Nha và Pháp. Không một gợn nhỏ nào khuấy động cuộc hôn nhân của chúng tôi; chúng tôi sinh được hai con trai, nay đã trưởng thành. Tôi được hơn bốn mươi tuổi thì chồng tôi chết hơi đột ngột. Qua những năm sống ở vùng nhiệt đới, ông ta đã mắc phải một chứng bệnh gan. Tôi đã mất ông ấy sau hai tuần đau khổ ê chề. Con trai lớn của tôi đã đi làm, đứa nhỏ còn đi học. Thế là chỉ qua một đêm, tôi đã hoàn toàn cô đơn và cảnh cô độc ấy đối với tôi, vốn được mọi người thương mến là một nỗi đau khổ ghê gớm. Tôi tưởng không thể ở thêm một ngày trong căn nhà trống trải, mỗi đồ vật đều gợi cho tôi cái chết bi thảm của người chồng yêu dấu; cho nên tôi quyết định sẽ đi du lịch thật nhiều trong những năm tới, chừng nào các con tôi chưa cưới vợ.
Từ lúc đó, trong thâm tâm, tôi coi đời tôi không còn mục đích gì và hoàn toàn vô ích. Người đã chia sẻ từng giờ, từng ý nghĩ với tôi trong suốt hai mươi ba năm trời đã chết; các con tôi không cần đến tôi, tôi sợ làm xáo trộn tuổi trẻ của chúng do tính tình ủ rũ và nỗi buồn của tôi, bản thân tôi không ham muốn gì hết. Thoạt đầu tôi đến Pari, trong cảnh nhàn cư, đi lướt qua các cửa hàng và các nhà bảo tàng; nhưng thành phố và đồ vật đối với tôi thật là xa lạ, tôi tránh mọi người, vì bộ đồ tang của tôi chỉ đem lại cho tôi những cái nhìn thương hại, làm tôi chẳng thích thú gì. Giờ đây, tôi không thể nào kể lại được những tháng ngày lông bông buồn tẻ, u uất, đã trôi qua ra sao; tôi chỉ biết rằng ý nghĩ muốn được chết luôn ám ảnh tôi; nhưng tôi không đủ sức tự xô đẩy mình tới cái kết thúc mong mỏi đau khổ ấy.
Năm góa bụa thứ hai của tôi, nghĩa là năm tôi ở tuổi bốn mươi hai, trong cảnh lầm lũi lẩn trốn trước cuộc sống vô nghĩa đối với tôi, thời gian thì không biết làm gì cho hết, tôi đã đi Môngtơ Cáclô (20), hồi tháng ba. Thành thật mà nói, đó là do buồn chán, muốn thoát khỏi cảnh trống rỗng đang dày vò tâm hồn mình như một cơn ói mửa và muốn tìm ra ít nhất là sự khuây khoả do những kích thích nhỏ bên ngoài đem lại. Tôi càng ít nhạy cảm bao nhiêu thì lại càng thấy cần lao vào nơi mà cuộc sống tỏ ra quay cuồng nhất; đối với người không còn quan tâm đến gì sâu sắc thì chỉ hoạt động say mê của những người khác, như sân khấu hay âm nhạc, mới tác động được tới trí não.6Do đó tôi thường đi đến cadinô (21). Điều kích thích đối với tôi là được nhìn thấy hạnh phúc hay thất vọng hiện lên trên mặt người khác một cách cuồng nhiệt, còn tôi thì không một luồng sinh khí nào có thể lay động nổi. Ngoài ra, chồng tôi tuy không hời hợt nhưng cũng thích lui tới nơi đổ bác và tôi vẫn trung thành với những thói quen cũ của anh một cách kính tín vô thức. Ở đó bắt đầu cái thời gian hai mươi bốn tiếng hồi hộp hơn tất cả các trò bài bạc trên đời và làm số phận tôi bị đảo lộn tới hàng năm trời.
Buổi trưa, tôi dùng bữa với công tước M… một người bà con trong gia đình. Sau bữa chiều, tôi chưa mệt mỏi đến nổi phải đi ngủ. Thế là tôi vào sòng bạc, không đánh, mà tha thẩn từ bàn này đến bàn khác, chỉ nhìn một cách đặc biệt những con bạc tụ tập lộn xộn ở đó. Tôi nói “một cách đặc biệt” vì đó là cách mà người chồng quá cố của tôi đã bày cho tôi vào một ngày mà chán không muốn nhìn nữa, tôi phàn nàn về sự buồn nản vừa phải trông mãi, một cách ngớ ngẩn, vẫn những khuôn mặt ấy: những bà già nhăn nheo, ngồi lì hàng giờ ở đó, trước khi liều quăng ra một đồng giơ-tông, những con bạc xảo trá và những “ả điếm đàng” của trò bài lá – tất cả cái xã hội tứ chiếng từ khắp nơi kéo đến; và như ông cũng biết đấy, cái xã hội ấy không đẹp đẽ và lãng mạn như bức tranh thường mô tả họ trong các truyện khốn khổ, trong đó họ được coi như bông hoa của sự hào hoa phong nhã, như giới quý tộc châu Âu. Và tôi nói với ông về lúc đó, là cách đây hai mươi năm, lúc mà tiền còn bằng vàng, bằng bạc, đủ trọng lượng, lăn được, lúc mà những tờ giấy bạc sột soạt, những đồng Napôlêông, những đồng năm phrăng to bự quay cuồng lộn xộn, lúc mà nhà cadinô còn thú vị hơn bây giờ nhiều và ở cái thành trì tráng lệ của đổ bác, được xây lại theo thời trang, đám công chúng trưởng giả gồm các du khách du lịch của hãng Cúc (22) đã uể oải vung phí những đồng giơ-tông vô tri vô giác. Nhưng trong thời kì ấy, tôi thấy vẻ đơn điệu của những bộ mặt dửng dưng đó không có gì hấp dẫn, cho đến một ngày, chồng tôi, vốn say mê đặc biệt việc coi tướng tay, đã chỉ cho tôi một cách nhìn mới, quả là thú vị, kích thích và cuốn hút hơn nhiều so với cách đứng uể oải tại chỗ mà xem, đó là cách không bao giờ nhìn vào mặt, mà chỉ nhìn vào cái khuôn vuông trên bàn, và ở chổ ấy, lại chỉ nhìn những bàn tay của con bạc, chỉ nhìn từng cử động của những bàn tay đó thôi.
Tôi không biết, có lúc nào ông vô tình ngắm những cái bàn màu xanh lá cây, riêng cái khoảng vuông màu xanh nhạt, trong cái khoảng đó, hòn bi tròn lảo đảo lăn từ số này sang số khác như một người say rượu và những tấm giấy xoay lộn, những đồng tiền tròn bằng vàng, bạc rơi như hạt giống xuống những ô vuông để sau đó, cái bàn cào của người hồ lì, y hệt một lưỡi liềm, hái tiền bằng một động tác sắc gọn, hoặc đẩy đi, như một bó lúa, về phái người được. Điều duy nhất, biến đổi trong cảnh này là những bàn tay, vô số những bàn tay, sáng sủa , sôi nổi, hoặc chờ đợi quanh chiếc bàn xanh, tất cả có vẻ đang rình rập, bên hang ổ, khác nhau ở nơi cổ tay áo, mỗi bàn tay đều giống một con thú sắp chồm lên, cái nào cũng có hình dáng, màu sắc của nó, có những cái trống trơn, có những cái đeo nhẫn và dây chuyền, kêu lanh canh, cái thì lông lá như thú dữ, cái khác mềm mại, và ẩm nhớp như con lươn, nhưng tất cả đều căng thẳng một cách thầm kín và rung lên, bồn chồn.
Mỗi lần thấy vậy, tôi tự nhiên nghĩ tới một trường đua ngựa, vào lúc bắt đầu cuộc đua, những con ngựa bị kích thích, khó khăn lắm mới kìm giữ được chúng, không cho chúng lao đi trước giờ đã định; những bàn tay của các con bạc cũng run lên, trỗi dậy và lồng lên đúng y như vậy. Qua cách chờ đợi, nắm giữ và ngưng lại, chúng bộc lộ cá tính người đánh bạc; có móng nhọn, chúng tố cáo con người gian tham; buông thả, con người hoang phí; bình thản, con người tính toán và run rẩy, con người tuyệt vọng. Hàng trăm đặc tính đã được lộ ra như vậy, trong nháy mắt, trong cử chỉ cầm tiền: có bàn tay vò tờ giấy bạc, có bàn tay vung tiền ra một cách nóng nảy, có con bạc, rã rời, mệt mỏi nắm tay lại, để tiền tự do lăn trên thảm.
Cờ bạc biểu lộ con người, đó là một từ sáo mòn, tôi biết vậy; nhưng ở đây, tôi nói: bàn tay của từng người trong canh bạc, còn biểu lộ con người đó rõ hơn nữa. Bởi vì tất cả, hoặc hầu hết tất cả những ai chơi trò đỏ đen đều sớm học được cách chế ngự nét mặt của mình: ở phía trên nơi cổ áo sơ mi, họ lạnh lùng đeo chiếc mặt nạ thản nhiên; họ buộc những nét hằn quanh miệng họ phải biến mất; họ đẩy lui cảm xúc của họ trong hàm răng nghiến chặt họ giấu nỗi lo âu đối với bản thân họ, họ làm giảm nét gân guốc của cơ bắp trên mặt họ bằng một vẻ thờ ơ giả tạo, làm như cao sang lắm. Nhưng chính vì họ tập trung chú ý che giấu những gì hiện lên rõ nhất trong con người, nghĩa là trên mặt, họ đã quên mất bàn tay, họ quên là có những người chỉ quan sát những bàn tay đó thôi và qua chúng đã đoán được những gì mà đôi môi cười tủm tỉm, cái nhìn giả bộ thờ ơ cố che giấu. Bàn tay để lộ trần trụi những điều bí ẩn nhất của con người. Bởi vì có một lúc, không sao tránh được, tất cả những ngón tay bị cầm giữ một cách khó nhọc, có vẻ như ngủ, đã không còn vẻ ung dung, thư thái nữa. Vào giây phút quyết định, khi hòn bi ở bàn ru-lét rơi vào hốc, và người ta rao số trúng lên, thì, ở giây phút đó, mỗi bàn tay trong số hàng trăm hay hàng năm trăm bàn tay này đã tự nhiên cử động một cách thật cá biệt, thật riêng tư, theo bản năng nguyên thuỷ của nó. Và khi người ta đã quen quan sát, như tôi, do sở thích của chồng mình truyền lại, loại đấu trường của những bàn tay, cách cử động đột ngột, luôn thay đổi, luôn bất ngờ, do những tâm tính luôn khác nhau để lộ ra thật say mê hơn cả sân khấu hay âm nhạc. Tôi không thể chỉ cho ông rõ từng chi tiết là trên bàn bạc có hàng ngàn dáng bộ của các bàn tay, cái thì như thú dữ, có những ngón tay lông lá, có móng vuốt, quắp tiền như kiểu con nhện, cái thì nóng nảy, run rẩy, móng tay nhợt nhạt, không dám sờ vào tiền; cao quý và bần tiện, tàn bạo và nhút nhát, xảo trá và gần như ngập ngừng; mỗi bàn tay đều có kiểu cách đặc biệt của mình, vì mỗi bàn tay đều có kiểu cách đặc biệt của mình, vì mỗi bàn tay đó đều thể hiện một cuộc sống khác nhau; không kể tới năm hay sáu bàn tay của những người hồ lì. Những bàn tay này thật sự là những cái máy; chúng hoạt động như những nhánh bằng thép kêu tanh tách của chiếc máy đếm có cánh quay chỉ để từng ngời một lọt qua, một cách khách quan, chuyên nghiệp, hoàn toàn vô tình, tương phản với cuộc sống cuồng nhiệt của những bàn tay trên. Nhưng chính những bàn tay lạnh lùng này, đến lượt chúng, lại tạo ra một tác động lạ thường bởi sự đối nghịch của chúng với những bàn tay chị em thèm khát và mê say kia, tôi dám nói là chúng mặc một bộ sắc phục riêng giống như các cảnh binh giữa biển người, trong không khí kích động của đám dân nổi loạn.
Thêm vào đó, còn cái thích thú riêng là chỉ qua vài buổi chiều, tôi đã thân quen được với vô số những thói lệ và nỗi say mê của vài bàn tay; chỉ cần ít ngày, là tôi đã quen những bàn tay mới và tôi xếp loại chúng, y như người, là có cảm tình hay khả ố. Nhiều bàn tay làm tôi thật khó chịu bởi sự thô tục và gian tham của chúng, mỗi khi thấy chúng là tôi nhìn ngay đi chỗ khác như đó là một vật dung tục. Mỗi khi có một bàn tay mới xuất hiện là tôi thấy đó là một sự kiện gợi trí tò mò của tôi làm tôi thường quên không nhìn đến bộ mặt tương ứng với nó, ở phía trên cổ áo, bất động, giống như chiếc mặt nạ lạnh lùng, lịch thiệp, trên chiếc sơ mi dạ hội hay một cái cổ long lanh đồ trang sức.